Tác giả D. D. EMMONS (*)
Làm
Dấu Thánh Giá là tuyên xưng Đức Tin, tuyên xưng Chúa Ba Ngôi. Trong số
kinh nguyện Công giáo phổ biến nhất là Dấu Thánh Giá. Vào bất kỳ nhà thờ
Công giáo nào trên thế giới bạn đều thấy ai vào nhà thờ cũng làm Dấu
Thánh Giá. Mỗi ngày chúng ta đều làm Dấu Thánh Giá ngay từ khi thức dậy
buổi sáng, và làm nhiều lần trong ngày.
Bước vào nhà thờ Công giáo ở bất cứ nơi
nào trên thế giới, người ta đều thấy người ta bước vào và làm Dấu Thánh
Giá, trước và sau mỗi bữa ăn.
Trong cuốn “Nói Về Các Bí tích”, Lm Arthur
Tonne kể một câu chuyện hồi thế chiến II về một ngôi làng ở Đức bị lính
Mỹ chiếm đóng. Dân làng không biết sẽ bị đối xử thế nào nên lo lắng về
sự an toàn. Nhưng người ta tin rằng sẽ bình an khi chứng kiến hai binh
sĩ Mỹ đứng trước Thánh Giá, bỏ mũ xuống, và làm Dấu Thánh Giá.
Từ khi sinh ra, trẻ em Công giáo để ý cha mẹ đưa tay làm Dấu Thánh Giá và đọc: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”.
Khi bệnh hoặc nửa mê nửa tỉnh, người Công giáo vẫn thường cố gắng làm
Dấu Thánh Giá khi cầu nguyện. Chúng ta được đóng dấu ấn thánh này khi
lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, ấn tín này ghi đậm suốt cuộc đời, và tuyên
xưng khi sắp qua đời.
Hằng ngày, khi đi ngủ, khi thức dậy, khi
tham dự Thánh lễ, khi đi qua nhà thờ, khi cầu nguyện, và nhiều trường
hợp khác, chúng ta đều làm Dấu Thánh Giá. Chúng ta dùng Dấu Thánh Giá để
ca tụng và kêu xin Chúa Giêsu bất cứ lúc nào trong cuộc sống. Lời cầu
này không mới lạ. Năm 211, trong cuốn The Chaplet (chuỗi hạt, tràng
hạt), thần hoạc gia và tác giả Công giáo Tertullian nói về việc làm Dấu
Thánh Giá như nhiệm vụ hằng ngày: “Trước khi di chuyển, đi xa hoặc đi
đâu đó, khi mặc quần áo, khi tắm, khi ngồi vào bàn ăn, khi thắp đèn,
hoặc khi làm bất kỳ hành động nào trong cuộc sống đời thường, chúng ta
vẫn vẽ Dấu Thánh Giá trên trán”.
Nhiều tác phẩm của các tác giả Kitô giáo
từ thế kỷ II, III, và IV – như Thánh Cyprian, Thánh Cyril thành
Jerusalem, Thánh Hippolytus thành Rôma, và Origen, đều nói rõ rằng các
Kitô hữu thường làm Dấu Thánh Giá ở mọi nơi. Năm 287, Thánh nữ Fides
(cũng gọi là Thánh Faith hoặc Thánh Fay – theo Việt ngữ là Tín) chịu tử
đạo để tuyên xưng đức tin. Câu chuyện về việc bà bị hành hạ được lan
truyền trong các nhóm Kitô hữu, nói rằng bà đã làm Dấu Thánh Giá trên
trán, miệng, và ngực trước khi chết. Qua nhiều thế kỷ, Giáo Hội vẫn tôn
kính cho rằng không có phép lành nào trọn vẹn nếu không làm Dấu Thánh
Giá.
khi làm Dấu Thánh Giá, các Kitô hữu
tưởng nhớ chân tay Chúa Giêsu bị kéo dãn ra, chịu khổ nạn trên đồi
Golgotha vì chúng ta. Chúng ta nhớ lại cách Ngài chết để cứu độ chúng ta
và cách Ngài phục sinh, trao ban cho chúng ta sự sống đời đời. Chúa Ba
Ngôi được tôn kính trong Dấu Thánh Giá khi chúng ta đặt tay lên trán
(Chúa Cha), ngực (Chúa Con), và hai vai (Chúa Thánh Thần). Thánh Gioan
Maria Vianney nói rằng làm Dấu Thánh Giá là “làm cho hỏa ngục run rẩy”.
Ngày nay, người Công giáo làm Dấu Thánh Giá bằng tay phải, các ngón tay
thẳng ra, để nhận biết 5 vết thương của Chúa Giêsu.
Trong
số các Kitô hữu thời sơ khai, Dấu Thánh Giá thường được làm trên trán
và dùng một ngón tay, thường là ngón cái như khi chúng ta làm Dấu Thánh
Giá trên trán, miệng, và ngực trước khi nghe Phúc Âm (gọi là Dấu Kép).
Với những người đầu tiên theo Chúa Giêsu, Dấu Thánh Giá được làm trên
đầu để nói lên rằng một người đã nhận biết sự hy sinh của Đức Kitô trên
Thánh Giá, và nhận biết người làm Dấu Thánh Giá là người đã được rửa
tội. Rồi như ngày nay, các Kitô hữu tin rằng Dấu Thánh Giá bảo vệ họ
khỏi sự dữ, ma quỷ, và những cơn cám dỗ.
Việc dùng một ngón tay vẫn được tiếp tục
cho tới thế kỷ V, khi nhóm dị giáo Monophysites tuyên bố rằng Đức Kitô
chỉ có một bản tính – nghĩa là Ngài chỉ có thần tính chứ không có nhân
tính. Để phản đối phái Monophysites, các Kitô hữu xác định Đức Kitô có
hai bản tính, thiên tính và nhân tính, và họ bắt đầu làm Dấu Thánh Giá
với hai ngón tay, ngón cái và ngón trỏ hoặc ngón trỏ và ngón giữa. Để
nhấn mạnh niềm tin, họ làm Dấu Thánh Giá lớn hơn trước, và làm với
chuyển động rõ ràng từ trán xuống ngực và hai vai.
Vài thế kỷ qua, đặc biệt là Giáo hội
Đông phương, người ta chú trọng việc nhận biết Chúa Ba Ngôi và hai bản
tính của Chúa Giêsu, họ dùng ba ngón tay.
Hơn 1.200 năm, đa số người Công giáo đều
làm Dấu Thánh Giá theo cách đó – nghĩa là Giáo Hội Đông phương và Tây
phương đều chạm trán, ngực, và hai vai, từ phải sang trái, với ba ngón
tay. ĐGH Innocent III nói: “Dấu Thánh Giá được tạo thành bởi ba ngón
tay, vì làm Dấu Thánh Giá để cầu khẩn của Chúa Ba Ngôi… từ trên xuống
dưới, và từ phải sang trái vì Chúa Giêsu từ trời xuống thế gian và từ
dân Do Thái tới dân ngoại”.
Các lý do căn bản khác về việc chạm vai
phải rồi vai trái là vì “Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha” và bên phải
biểu thị ánh sáng và điều tốt lành, còn bên trái biểu thị bóng tối.
Tuy nhiên, vào cuối thời Trung Cổ, người
Công giáo Tây phương làm Dấu Thánh Giá dùng ngón giữa chạm vào vai trái
rồi sang vai phải. Theo các nguồn tài liệu, cách này và các lý do căn
bản là lòng sùng kính hồi thế kỷ XV được dùng bởi các nữ tu Dòng
Brigittine Sion ở Isleworth (Anh quốc), cho rằng người ta nên bắt đầu
dùng từ trán và chuyển xuống, rồi sang trái và sang phải. Điều này nói
lên rằng Chúa Giêsu đến từ Chúa Cha (trán), sinh ra làm người (ngực),
chịu khổ nạn trên Thánh Giá (vai trái), và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha
(vai phải). Cách này trở thành tiêu chuẩn trong Giáo Hội Tây phương.
Không hiểu tại sao có sự thay đổi này hoặc không biết tại sao lại bắt
nguồn từ Giáo Hội Tây phương, tiếp tục dùng ba ngón tay để làm Dấu Thánh
Giá và từ vai phải sang vai trái.
Dấu Thánh Giá phản ánh mầu nhiệm cứu độ,
là công khai tuyên xưng Đức Tin ở các thánh, những người tín trung và
những người bình thường, cả người giàu và người nghèo. Cách đơn giản này
là hành động đạo đức và là điều người Công giáo tin tưởng.
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Catholic Digest)
_________________________
(*) D. D. Emmons ở O’Fallon, Illinois. Vợ chồng ông là giáo dân xứ Thánh Nicôla.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét