LGT: Sau thánh lễ khai mạc HÀNH HƯƠNG MẸ LA VANG 2012 tại nhà thờ
Mẹ Việt Nam, Silver Spring, Marylang (TGP Washington, DC), Đức Cha Vinh Sơn
Nguyễn Văn Long đã chia sẻ với cộng đoàn dân Chúa với chủ đề MẸ LA VANG VỚI DÂN
TỘC VIỆT NAM...
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Hôm nay, tôi rất hân hạnh được đến Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn để tham dự cuộc Hành
Hương kính Đức Mẹ La Vang do Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ tổ chức.
Lời đầu tiên, tôi xin được gởi đến toàn thể quý vị đó là lời chúc sức khoẻ, tình
yêu và ân sủng của Thiên Chúa. Xin Ngài kiện toàn thánh ý nhiệm mầu của Ngài nơi
chúng ta, những chứng nhân của tự do, công lý và nhân bản. Tôi cũng xin được
chuyển lời chào thân thương của đồng bào chúng ta tại Úc Đại Lợi luôn hướng về
khối người Việt tại Hoa Kỳ như là con chim đầu đàn của đàn chim Việt đang tản
mác khắp bốn phương trời. Dù ở đâu, người Việt Nam chúng ta cũng cố gắng để
làm rạng danh ‘con Rồng cháu Tiên’ và cùng tranh đấu cho một tương lai tươi sáng
của quê hương dân tộc.
Chủ đề mà Ban Tổ Chức đã mời tôi đến để chia sẻ với quý vị tối nay là “Mẹ La
Vang với dân tộc Việt Nam.” Tôi phải thú thật là khi nhìn vào một chủ đề như
thế, tôi không biết phải nói gì để khỏi phụ lòng mong đợi của quý vị. Nhiều
người nghĩ rằng, giám mục thì có thể nói về bất cứ vấn đề gì. Thực tế thì không
như thế. Ở lứa tuổi 50 và sống hai phần ba đời mình ở Úc, tôi cũng chỉ có một
kiến thức giới hạn – nhất là về những vấn đề liên quan đến Việt Nam. Tôi không
thể ‘xuất khẩu thành thơ’ và càng không thể ‘múa rìu qua mắt thợ’ trước một cử
tọa ở cái nôi chính trị và văn hóa của Hiệp Chủng Quốc này. Ước mong của tôi là
được chia sẻ và học hỏi hơn là được ‘thuyết giảng’ về mối liên quan giữa tôn
giáo và dân tộc – nhất là trong hoàn cảnh đất nước chúng ta hôm nay. Tôi cũng
đại diện cho một thế hệ trẻ được hấp thụ hai nền văn hoá khác nhau. Vì thế, ước
mơ của tôi là làm một nhịp cầu giữa hai thế hệ, ngõ hầu ngọn đuốc của tự do và
công lý được chuyển tiếp cho đến ngày quê hương mến yêu được phục hưng.
Để tìm hiểu về sự tương quan của “Mẹ La Vang với dân tộc Việt Nam,” chúng ta
có thể nhìn vào một dân tộc mà lịch sử của họ cũng có nhiều điểm tương đồng với
Việt Nam chúng ta, đó là Ba Lan, quê hương của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo
II. Ba Lan, một quốc gia bị ngoại bang xâm chiếm nhiều lần và trong lịch sử cận
đại đã chịu nhiều tang tóc hơn các dân tộc khác, với hơn sáu triệu người chết
trong Đệ Nhị Thế Chiến. Hơn thế nữa, Ba Lan đã sống dưới bóng của tên khổng lồ
không mấy tử tế là Liên Bang Xô Viết và chế độ Cộng Sản hơn bốn thập niên. Trong
suốt những năm dài tăm tối đó, người dân Ba Lan đã hướng về một thánh địa tượng
trưng cho tinh thần dân tộc và ý chí bất khuất của họ, đó là Jasna Gora – một
địa danh có nghĩa là Núi Sáng (Luminous Mount) hoặc có thể tạm dịch là Minh Sơn.
Nơi đây, Đức Trinh Nữ Maria dưới danh hiệu Đức Mẹ Czestochowa được sùng kính như
là Đấng Bảo Vệ cho dân tộc Ba Lan qua bao thăng trầm của lịch sử.
Đức Mẹ Czestochowa có nghĩa là ‘Đức Mẹ Đồng Đen’ Tục truyền rằng, vào năm
1655, khi quân Thụy Điển chuẩn bị xâm chiếm Ba Lan, những người lính trên đồi
Jasna Gora đã cầu nguyện với ảnh Đức Mẹ Đồng Đen và họ dù yếu thế hơn đã đẩy lui
được quân Thụy Điển. Từ đó, Đức Mẹ Czestochowa được mệnh danh là Nữ Vương nước
Ba Lan và đồi Jasna Gora được coi như thánh đô của họ. Vào năm 1920, khi Hồng
Quân Liên Xô ồ ạt đánh vào Warsava, một lần nữa người dân Ba Lan lại chạy đến
với Đức Mẹ Czestochowa. Không ai có thể giải thích nổi, với một đạo quân hùng
mạnh nhất Âu Châu thời đó, Hồng Quân Liên Xô đã bị đánh bại ở dòng sông Vistula
– một chiến thắng không ngờ, như Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch
Đằng năm xưa (938).
Với lịch sử dân tộc gắn liền với đức tin Công Giáo và đặc biệt là lòng sùng
kính Đức Mẹ, chúng ta không ngạc nhiên khi Jasna Gora trở thành một biểu tượng
không thuần túy về tôn giáo mà là một biểu tượng cho tinh thần quốc gia và niềm
tự hào dân tộc. Mỗi khi quốc gia bị mất chủ quyền và dân tộc bị đàn áp, người
dân Ba Lan đã tìm đến Jasna Gora không phải chỉ nguyện xin mà còn tìm một lối
thoát cho quốc gia và một tương lai mới cho dân tộc. Chính vì thế, trong những
năm gọi là ‘chiến tranh lạnh,’ khi bạo quyền Cộng Sản Ba Lan, được sự chỉ đạo
của Điện Cẩm Linh, dập tắt tất cả các ngọn lửa đấu tranh cho nhân quyền, Jasna
Gora đã trở nên thành lũy đối kháng và linh hồn của phong trào chống cộng.
Vào ngày 26 tháng 8 năm 1982, tức ngày Lễ Kính Đức Mẹ Czestochowa, Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolo II đã nói những lời tâm huyết với đồng bào mình còn đang sống
sau cái gọi là ‘bức màn sắt’ và đang tranh đấu cho tự do. Ngài nói như sau:
“Đồng bào thân mến. Dù đời sống của người Ba Lan khó khăn thế nào,
xin cho chúng ta thâm tín rằng cuộc đời của chúng ta đã thuộc về Trái
Tim Mẹ. Như Mẹ đã toàn thắng nơi Thánh Maximiliano Kolbe, người Hiệp sĩ
của Đấng Khiết Trinh, xin Mẹ cũng toàn thắng nơi chúng ta. Xin Mẹ Jasna
Gora toàn thắng nơi chúng ta và qua chúng ta. Xin Mẹ toàn thắng ngay cả
qua những đau khổ và thất bại của chúng ta. Xin Mẹ cho chúng ta đừng
nản lòng tranh đấu cho công lý và sự thật, cho tự do và nhân phẩm của
con người. Chẳng phải lời của Mẹ ở tiệc cưới Cana ‘Hãy làm theo mệnh lệnh của
Ngài’ có nghĩa như vậy sao? Anh chị em hãy nhớ rằng, sức mạnh được thể hiện qua
sự yếu đuối. Tôi ở gần anh chị em. Tôi luôn nhớ tới anh chị em.”
Đọc những lời của Đức Thánh Cha, tôi không có cảm tưởng là tôn giáo và chính
trị là hai thái cực mà người tín hữu không được lẫn lộn. Ngược lại, sự nhập thể
của Thiên Chúa vào đời sống của con người đòi buộc chúng ta cũng phải ‘nhập thể’
dưới ánh sáng Tin Mừng. Như lời mở đầu Hiến chế Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy
vọng) của Công Đồng Vaticano II đã khẳng định “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo
lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng
là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô,” Chân phước
Gioan Phaolô II đã cho chúng ta thấy rằng, tranh đấu cho công lý và sự thật, cho
tự do và nhân phẩm không phải là việc làm của những kẻ muốn chính trị hóa tôn
giáo mà là bổn phận ‘nhập thể hóa’ Tin Mừng và ‘Kitô hóa’ môi trường của chúng
ta. Nếu chúng ta chỉ giữ đạo trong nhà thờ, nếu chúng ta chỉ đóng khung tôn giáo
trong những vấn đề siêu nhiên mà hoàn toàn vô cảm với những vui mừng và hy vọng,
những sợ hãi và lo âu của đồng loại, thì phải chăng tôn giáo chỉ là thứ thuốc
phiện ru ngủ chúng ta như lời Karl Marx? Đây cũng là chiêu bài của cộng sản. Họ
muốn tôn giáo chỉ là thứ thuốc phiện ru ngủ dân chúng. Họ muốn biến tôn giáo trở
thành một công cụ của chế độ.
Cách đây không lâu, tôi có nghe một câu nói rất hùng hồn: “Nếu ai không thích
cộng sản, người ấy không nên yêu cầu chúng tôi khích bác họ.” Đằng sau câu nói
này là một khó khăn thực tế cho những ai phải sống dưới chế độ cộng sản. Trong
bối cảnh đất nước và giáo hội Việt Nam hôm nay, sự liên quan giữa chính trị và
tôn giáo quả thật là một đề tài hết sức tế nhị cho người tín hữu, nhất là các vị
lãnh đạo. Làm sao để giữ được một lợi thế thực dụng cho giáo hội mà không
thỏa hiệp các giá trị cơ bản của Phúc Âm? Làm sao thăng tiến đời sống đạo và lo
cho các nhu cầu của các giáo xứ, các dòng tu, các chủng viện v.v... và đồng thời
làm trách nhiệm ngôn sứ trong một xã hội độc tài đảng trị? Đó là một số những
mệnh đề nan giải mà những ai sống với cộng sản mới biết những phức tạp của nó. Ở
đây, tôi không có ý phê bình câu nói hùng hồn trên kia hay một thái độ nào đó
của các vị lãnh đạo giáo hội trước tình hình chính trị của đất nước. Tuy nhiên,
như Đức Cố Giáo Hoàng Phaolo II đã quảng diễn qua lời giảng dạy, thái độ và đời
sống của ngài, Kitô hóa môi trường theo tôn chỉ Phúc Âm là nhiệm vụ của mọi tín
hữu. Tranh đấu cho công lý và sự thật, tự do và nhân phẩm là con đường tất yếu
của những ai theo Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Vì thế, vấn đề ở đây
không phải là chúng ta ‘không thích cộng sản’ hay ‘khích bác họ.’ Vấn đề ở đây
là chọn lựa của chúng ta giữa hai thế lực tương phản: sự thật và sự giả dối, sự
thánh thiện và sự gian ác, ánh sáng và bóng tối. Vâng, người tín hữu phải yêu
thương cả kẻ thù, kể cả người cộng sản. Nhưng chúng ta không thể đồng lõa và vô
cảm với sự giả dối, gian ác và phi nhân của họ. Chính tình yêu đối với Thiên
Chúa và nhiệt tâm cho Vương Quốc của Ngài đòi hỏi thôi thúc chúng ta trong cuộc
chiến cho công lý và sự thật, ánh sáng và sự sống – cuộc chiến mà chính Đức Kitô
đã tranh đấu và khải hoàn qua sự chết và phục sinh của Ngài.
Quý vị thân mến,
Nếu người dân Ba Lan đã coi Đức Mẹ Czestochowa như là biểu tượng niềm tin của
họ, thì người Việt Nam chúng ta có thể coi Đức Mẹ La Vang như là biểu tượng niềm
tin của chúng ta hay không? Hơn thế nữa, nếu Jasna Gora đã hun đúc tinh thần đấu
tranh cho quê hương và cho giáo hội Ba Lan trong những chặng đường cam go nhất
của lịch sử dân tộc Ba Lan, người Việt Nam Công Giáo chúng ta có thể đến với Mẹ
La Vang trong nỗ lực tìm kiếm một tương lai tươi sáng cho đất nước và giáo hội
hay không? Đối với tôi, những câu hỏi này thật thiết thực với bối cảnh của quê
hương chúng ta hôm nay. Đối với tôi, đây không phải là ‘chính trị hóa’ La Vang
mà là đem Phúc Âm vào lòng dân tộc và là thực thi vai trò ngôn sứ của chúng ta
trong một xã hội đang mất căn tính nhân bản. Nói một cách khác, nếu người tín
hữu chúng ta phải như ‘thành phố xây trên núi’ hay như ‘muối men cho đời,’ thì
vai trò phục hồi cho xã hội một căn tính nhân bản trên những giá trị Phúc Âm là
vai trò thiết yếu của chúng ta. Câu Kinh Đức Mẹ La Vang “Xin cho chúng con tấm
lòng từ bi nhân hậu, đại lượng bao dung, cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình
thương và sự sống” sẽ không có ý nghĩa khi người tín hữu chúng ta vô cảm trước
hiện tình một xã hội băng hoại toàn diện đang diễn ra trên quê hương chúng
ta.
Như quý vị đã biết, trong những ngày gần đây, giáo hội tại Hoa Kỳ đang tranh
đấu cho quyền tự do tôn giáo qua những cuộc biểu tình rầm rộ, những kháng cáo
trước tòa án cũng như qua các phương tiện truyền thông. Lý do là gi? Đó là việc
chính phủ của Tổng thống Obama đã đề xướng ra một đạo luật về y tế mà theo đó,
tất cả các tổ chức kể cả tổ chức Công Giáo phải cung cấp bảo hiểm phổ quát bao
gồm ngừa thai cho các nhân viên của mình. Các giám mục Hoa Kỳ đã không ngần ngại
đương đầu với chính sách ‘Obamacare’ mà họ cho rằng đi ngược lại với luân lý
Công Giáo và hơn thế nữa giới hạn quyền tự do của giáo hội trong việc hành xử
theo giáo luật. Giáo hội không thể làm ngược lại tôn chỉ của Phúc Âm nếu bị bắt
buộc phải cung cấp dịch vụ phá thai hay ngừa thai – dù chỉ là gián tiếp – trong
các bệnh viện của mình hay tài trợ các dịch vụ này cho các nhân viên của mình
như tại trường học, giáo xứ, cơ sở xã hội v.v... Chính vì thế, các giám muc Hoa
Kỳ đã không ngần ngại đứng lên bảo vệ những giá trị mà họ cho là không thể
nhượng bộ dù là trong một xã hội đa nguyên. Nhiều giáo dân và ngay cả một số
giáo sĩ Hoa Kỳ không đồng quan điểm với Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ. Nhưng ít ra,
không ai có thể chỉ trích là họ đã can thiệp vào chính sách của nhà nước hay là
họ đã vượt qua giới hạn tôn giáo thuần túy. Phúc Âm và đời sống không thể tách
lìa nhau; tôn giáo và chính trị không thể không liên hệ với nhau. Vai trò ngôn
sứ của Giáo hội đòi buộc người tín hữu ở mỗi bậc và mỗi hoàn cảnh phải tranh đấu
cho một xã hội phản ảnh Vương Quốc của Thiên Chúa, hay như Kinh Đức Mẹ La Vang,
là xây dựng một ‘nền văn minh tình thương và sự sống.’
Thực thế, truyền thống công lý xã hội trong Kinh Thánh là bằng chứng hùng hồn
về sự nhập thế của các giá trị siêu nhiên vào đời sống tự nhiên của con người.
Ơn cứu độ không chỉ có nghĩa là một sự giải thoát của linh hồn và đời sống vĩnh
hằng trên Thiên Quốc mà là sự giải thoát con người toàn diện. Ngay trên cõi đời
này và ngay trong xã hội này, con người được mời gọi để sống cuộc sống sung mãn
với Thiên Chúa và tha nhân. Do đó, sống đức tin và sống thánh thiện không chỉ có
một chiều dọc, tức là thờ phượng kính mến Chúa được quảng diễn qua xây nhà thờ,
tu viện, trung tâm, lễ nghi, kinh kệ, rước sách, đình đám, hành hương, ăn chay
hãm minh v.v... Sống đức tin và sống thánh thiện không thể tách lìa khỏi tiến
trình công lý hóa xã hội và phong phú hóa đời sống con người. Tiên tri Isaiah đã
định nghĩa cho chúng ta thế nào là giữ đạo, đó là “phá vỡ xiềng xích của bọn ác
nhân, cất đi gánh nặng của kẻ lầm than, giải thoát cho kẻ bị áp bức và phá tan
mọi gông xiềng” (Isaiah 58:6). Đức Kitô cũng đã đúc kết sứ mạng của Ngài trong
câu nói đầy ý nghĩa và súc tích: “Ta đến để mọi người được sự sống và sự sống
viên mãn” (Gioan 10:10). Sự sống viên mãn không phải chỉ là ở đời sau. Nó là sự
sống toàn thể trọn vẹn. Nó là sự sống trong yêu thương, trong công lý, trong
tình người từ bây giờ và mãi mãi.
Ở bên Úc, có rất nhiều người hỏi tôi là họ phải làm gì khi nhận những lá thư
hay những lời kêu gọi giúp đỡ giáo hội quê nhà. Nào là xây nhà thờ, sửa tu viện,
tu bổ trung tâm hành hương, nâng cấp địa điểm truyền giáo.... rồi nào là giúp cô
nhi, người tàn tật, các chị em lầm lỡ [tôi không mấy ưa cụm từ này vì nó có vẻ
kỳ thị giới tính quá. Còn các anh lầm lỡ đâu?] Có nhiều người còn nói là họ rất
sợ vô đoàn thể vì đó là những nơi bị xin tiền! Tôi trả lời với họ rằng chúng ta
không nên vô cảm nhưng cũng không nên tạo một gánh nặng cho mình hay cho người
khác. Tôi cũng nói thêm là trên hết mọi sự giúp đỡ, anh chị em hãy tham dự vào
tiến trình công lý hóa cho dân tộc. Vì sao? Vì căn nguyên của sự nghèo đói và
của những nỗi nhục quốc thể ở trong nước cũng như ở ngoài nước là hệ thống chính
trị lỗi thời, là chế độ cộng sản tham nhũng, bất công và phi nhân. Tôi sẽ không
bao giờ ngần ngại để nói lên sự thật phũ phàng đó. Tôi sẽ không bao giờ tách lìa
lý tưởng một Việt Nam phi cộng sản và một Việt Nam nhân bản ra khỏi sứ mạng giám
mục của tôi.
Nhiều người Công Giáo quan niệm rằng, đạo và đời là hai thực thể riêng biệt.
Chính vì thế, câu nói “người Công Giáo không làm chính trị” đối với họ đã trở
thành sự biện minh cho thái độ vô cảm hay chủ trương không tham dự vào những vấn
đề xã hội và đất nước. Một số quý vị lớn tuổi ở đây chắc đã từng trải qua thời
kỳ Việt Minh vào những năm sau Đệ Nhị Thế Chiến. Ở Bắc Việt, Đức Giám Mục Lê Hữu
Từ, là một vị tiền nhiệm của Đức Giám Mục Nguyễn Năng hiện nay, đã có thời lập
ra khu Bùi Chu - Phát Diệm tự trị với cả những đội vũ trang Tự vệ Công giáo,
chống lại chính quyền Việt Minh do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo. Đối với ngài cũng
như rất nhiều giám mục miền Bắc trong thời kỳ đó đã không ngần ngại dấn thân cho
quê hương và có thể nói vượt qua cái ranh giới thông thường của đạo và đời, tôn
giáo và chính trị. Hôm nay, tôi không có ý hoài niệm về một quá khứ mà nhiều
người trong thế hệ cha anh rất tự hào về giáo hội Việt Nam; tôi càng không có ý
cổ võ một con đường chống đối bạo động dù đối với chế độ vong bản phi nhân.
Tuy nhiên, khi lấy cuộc sống sung mãn làm mục đích, chúng ta không thể mặc
nhiên để sự ác hoành hành khống chế xã hội. Sự ác này không những thể hiện nơi
cá nhân hay đoàn thể. Tôi cho rằng sự ác lớn nhất đang hoành hành trên đất nước
chúng ta hôm nay chính là tà quyền và hệ thống chính trị đưa con người vào chỗ
bế tắc.
Có nhiều người sẽ không đồng thuận với nhận xét và quan điểm ở trên của tôi.
Họ dẫn chứng rằng: Việt Nam đã có ít nhiều tự do tôn giáo. Nhà thờ, dòng tu,
chủng viện v.v... được xây cất tu bổ một cách rầm rộ. Giáo dân đi lễ không còn
chỗ ngồi. Ơn gọi không còn chỗ chứa. Bây giờ, cái khó không phải là do chính phủ
hay công cụ của họ như công an cảnh sát gây nên. Cái khó là do đời sống luân lý
đạo đức suy đồi của người dân, đặc biệt là giới trẻ... Tôi không phủ nhận những
thử thách đến từ sự mất hướng đi, lối sống buông thả và hưởng thụ vô trách nhiệm
của thế hệ hôm nay cũng như đã xảy ra cho thế hệ hôm qua. Nhưng tôi cho rằng
những thử thách về đời sống luân lý vẫn ở mãi với chúng ta từ đời này qua đời
khác. Cái khác là trong một xã hội bị cai trị bởi một tà quyền và hệ thống chính
trị gian dối ác độc, những thử thách ấy mang một sắc thái tiêu cực và bi đát
hơn. Khi một chế độ không cho giới trẻ một tương lai, không tạo cho họ một niềm
tự hào, không cho họ cơ hội phát huy tài năng; khi một chế độ chỉ cho họ tiến
thân qua thẻ đảng, khi chỉ có ‘còn đảng mới còn ta’ thì làm sao tránh được sự
tuyệt vọng, sự mất hướng đi và sự bất cần của giới trẻ. Hãy cứ hỏi những cô dâu
đi lấy chồng Đài Loan, Nam Hàn, những người lao động hợp tác ở Mã Lai, ở Arab
Saudi và thậm chí ở cả Phi Châu, những người di dân bất hợp pháp ở Đông Âu,
những em bị bán làm nô lệ tình dục ở Thái Lan, những người dân oan bị cướp đất,
các công nhân bị bóc lột ở các hãng xưởng, những người trẻ trong các ‘chat-room’
v.v... Có lần đi Macau, tôi gặp một số bạn trẻ Việt Nam lao động bất hợp pháp.
Họ bị đối xử tàn tệ mà tòa đại sứ Việt Nam hoàn toàn không can thiệp. Tôi không
nghĩ là trong các nước không cộng sản không có những vấn nạn xã hội của họ –
ngay cả trên đất nước Hoa Kỳ này. Nhưng một điều không thể chối cãi được là
trong nước ta hôm nay, nhiều những hiện tượng tôi đan cử trên là vô tiền khoáng
hậu trong lịch sử oai hùng của nước ta và là những nỗi nhục quốc thể cho những
ai mang dòng máu Việt. Những hiện tượng này là triệu chứng của một cơn bệnh trầm
kha: một thể chế hoàn toàn băng hoại và dẫn cả dân tộc vào chỗ bế tắc.
Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI có nhắc nhở cho người Công Giáo là “Giáo Hội
không làm chính trị nhưng cũng không đứng bên lề xã hội.” Lịch sử Việt Nam qua
nhiều thời đại đã minh chứng được sự dấn thân của người tín hữu thuộc mọi thành
phần giáo hội vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. Thế nhưng trong những
năm gần đây, sự ru ngủ lương tri của giáo hội đã trở thành một hiện tượng phổ
biến nằm trong chính sách công cụ hóa tôn giáo của chính quyền cộng sản. Các cụm
từ như ‘tôn giáo và dân tộc,’ ‘tốt đời đẹp đạo,’ ‘giáo dân tốt công dân tốt,’
‘kính Chúa yêu nước’ và ‘đồng hành cùng dân tộc’ đã trở thành những viên thuốc
an thần để ru ngủ lương tri và vô hiệu hóa vai trò ngôn sứ của giáo hội. Khi
“đồng chí” Lê Hồng Anh, thường trực Ban Bí Thư, đi thăm Đức Cha Bùi Tuần nhân
dịp Giáng sinh 2011, “ông bày tỏ tin tưởng đồng bào có đạo tiếp tục phát huy
truyền thống kính Chúa yêu nước” (nguyên văn của báo Sàigòn Giải Phóng). Rồi
sống sượng hơn nữa, “đồng chí” Nguyễn Thiện Nhân, Phó Thủ Tướng, tại La Vang năm
2010 đã ban huấn từ cho cả các giám mục Việt Nam về việc mà ông gọi là “đồng
hành cùng dân tộc.” Cái điều mà người Tây phương gọi là ‘elephant in the room’
tức là điều ai cũng nhận ra là đảng đã tự tôn mình ngang hàng với dân tộc thay
vì là ‘đầy tớ của nhân dân’ như họ vẫn rêu rao. Bằng chiêu bài đồng hóa đảng với
dân tộc họ biến lòng yêu nước thành yêu đảng và chống đảng là chống lại dân tộc.
Điều đáng buồn là liều thuốc an thần này đang làm ru ngủ và làm vô cảm lương tri
của nhiều người Việt Nam, kể cả người tín hữu. Đồng hành cùng dân tộc không thể
là đồng hành cùng chế độ, nhất là khi chế độ đó đang đưa dân tộc vào chỗ diệt
vong.
Quý vị thân mến,
Trở lại câu hỏi là chúng ta có thể đến với Mẹ La Vang trong nỗ lực tìm kiếm
một tương lai tươi sáng cho đất nước và giáo hội hay không, niềm xác tín của tôi
là đây là bổn phận của người tín hữu. Như người Công Giáo Ba Lan, cũng như ở
khắp mọi nơi, chúng ta người tín hữu Việt Nam cũng cùng Mẹ để hành trình tiến về
sự sống sung mãn cho đất nước và cho dân tộc. Ở trên, tôi đã chứng minh là đây
là sự nhập thể hóa đức tin và là bổn phận Phúc Âm hóa môi trường xã hội của
người môn đệ Chúa Giêsu. Bây giờ, tôi xin được hướng về chính Đức Trinh Nữ Maria
như là một ‘mẫu người lữ hành trong đức tin’ và là một ‘đầy tớ can trường của
công lý.’
Có lẽ đối với nhiều người Công Giáo Việt Nam, họ ít khi nào dùng hai cụm từ
này để diễn tả hay suy niệm về Đức Mẹ. Trong gần 20 năm ở trong nước, kể cả
những năm ở tiểu chủng viện Phaolô Xuân Lộc, tôi chưa một lần nghe các cha giảng
về Đức Mẹ dưới hai danh hiệu nói trên. Thế nhưng tôi cho rằng đây là một kho
tàng về Thánh Mẫu học mà chúng ta cần khai phá, nhất là cho những tín hữu Việt
Nam trong bối cảnh của đất nước chúng ta hôm nay.
Phúc Âm thánh Luca đã mô tả là khi Maria bước vào nhà mình, bà Elisabeth được
đầy ơn Chúa Thánh Thần đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm
tôi... Phúc cho em là kẻ đã tin lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện” (Luca
1:43,45). Maria được đầy ơn phúc không những vì là người được những đặc ân Thiên
Chúa ban tặng. Bà là một người đã tín thác tuyệt đối. Bà là mẫu người lữ hành
trong đức tin vượt trội hơn mọi người lữ hành khác. Abraham đã tin vào lời Chúa
hứa khi ông bỏ tất cả để tiến về vùng đất hứa. Ông đã tin dù chẳng được thấy
bằng chứng của lời hứa ấy. Abraham chẳng hề nhìn thấy con đàn cháu đống và cũng
chẳng hề được bước chân vào vùng đất đầy sữa và mật ong. Ông tin khi không còn
gì để tin và hy vọng khi không còn gì để hy vọng. Maria cũng thế. Bà cũng tin
khi không còn gì để tin và hy vọng khi không còn gì để hy vọng. Ít ra ông
Abraham khi phải chịu thử thách là đem con đi sát tế, Chúa đã nhận lòng tin và
cứu con ông khỏi chết. Còn lòng tin của Maria thì bị thúc đẩy đến đường cùng. Bà
phải chứng kiến con một mình bị sát tế trên bàn thờ thập giá. Đức tin của bà
được chứng minh một cách tuyệt đối. Maria trên Núi Sọ đã trở thành một người lữ
hành trọn hảo trong đức tin. Bà cũng là môn đệ trọn hảo vì đã bước theo con
đường chân thiện mỹ của Đức Kitô cho đến cùng.
Còn Maria là ‘đầy tớ can trường của công lý’ như thế nào? Kinh Magnificat
(Luca 1:46-55) cho chúng ta câu trả lời khi Maria ca ngợi Đấng đoái thương tới
người nữ tì hèn mọn như Ngài đã luôn chúc phúc cho những kẻ khiêm nhường và đói
nghèo nhưng luôn kính sợ Ngài. Những lời nói này đối với những người không hiểu
lịch sử cứu độ thì có vẻ tổng quát và mơ hồ. Kẻ khiêm nhường và người nghèo đói
theo truyền thống Kinh Thánh là những người trung tín với giao ước bất chấp
những thử thách. Họ không chỉ là những người mà nói theo tục ngữ Việt Nam là “ở
hiền gặp lành”.
Khi người Do Thái bị lưu đày hơn 60 năm ở Babylon, rất nhiều tín hữu mất niềm
tin trong tâm trạng tuyệt vọng hoàn toàn. Họ mất quê hương, mất đền thánh
Jerusalem, mất hòm bia, mất chính quyền, mất quân đội và mất tất cả. Họ bỏ giao
ước vì nghĩ rằng chính Thiên Chúa đã bỏ họ. Chỉ có một thiểu số giữ vững niềm
tin và tiếp tục duy trì giao ước. Trong Kinh Thánh họ được gọi là ‘Anawim’ mà có
thể gọi nôm na là ‘tàn dư còn sống sót’ [danh từ này rất phổ thông trong những
năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975; chính quyền cộng sản dùng để miệt thị những ai
dính líu tới chế độ cũ.] Chính từ những ‘tàn dư’ này hay hình ảnh ‘gốc chồi
Jesse’ mà Thiên Chúa đã tái tạo một Do Thái mới sau khi họ trở về đất hứa. Họ là
những người sống theo sự công chính của giao ước. Họ là những người trung tín
với đường lối Thiên Chúa ngay cả khi lộ trình này tưởng như chỉ dẫn đến sự thất
bại, tủi nhục và tuyệt vọng.
Maria là nữ tì hèn mọn theo bước chân của những ‘tàn dư’ trung tín. Đức Thánh
Cha Gioan Phaolo II đã viết là “Anawim không phải một giai cấp xã hội mà là một
sự chọn lựa của kẻ công chính.” Họ chọn con đường công lý và sự thật mặc dù bị
thiệt thòi và bắt bớ. Họ trung kiên theo giao ước dù bị kẻ có quyền bính ức
hiếp. Như thế kẻ ‘tàn dư’ trung tín cũng là những ai sống tám mối phúc thật.
Maria đầy ơn phúc vì Ngài là người nghèo khó, người hiền lành, người có lòng
thương xót, người khóc lóc và khao khát chân lý... Maria đầy ơn phúc vì Bà trung
kiên bước theo con đường của người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa. Đức Gioan
Phaolô II kết luận là “Bài ngợi ca Magnificat đã nói lên vai trò của Mẹ trong
cuộc chiến chống lại sự dữ và tà quyền.” Mẹ là người đồng hành và liên đới với
tất cả những ai đứng về phía công lý và sự thật.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (Lc 1:51-53)
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (Lc 1:51-53)
Những lời này cho chúng ta thấy Thiên Chúa luôn đứng về phía ‘anawim’ của
Ngài, tức là những người dù thiểu số và yếu hèn nhưng luôn kiên cường trong công
lý và sự thật. Ngài sẽ chiến thắng trên những kẻ gian tà và phục hồi danh dự
những ‘anawim’ của Ngài. Thiên Chúa đã thực hiện chiến thắng này nơi Đức Kitô,
“phiến đá mà người thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường”. Ngài đã thực
hiện nơi Maria nữ tì hèn mọn cũng như tất cả những ‘anawim’ trung tín của
Ngài.
Quý vị thân mến,
Đức Mẹ La Vang đã đi vào tâm hồn của người Công Giáo Việt Nam và Ngài cũng đã
đi vào lòng dân tộc chúng ta. Dù không phải như là người Ba Lan đã gắn bó với
thánh địa Minh Sơn như là linh hồn của cả dân tộc, người Việt Công Giáo ở khắp
mọi nơi hướng về Mẹ La Vang như là người đồng hành trong thăng trầm của lịch sử
và là đấng phù hộ trong cơn thử thách. Lòng sùng kính Đức Mẹ không chỉ đưa chúng
ta tới những hành động thuần túy tôn giáo và lễ nghi như đi hành hương, dâng
hoa, rước kiệu, cung nghinh v.v... Với bổn phận ‘nhập thể hóa’ Tin Mừng và ‘Kitô
hóa’ môi trường, lòng sùng kính Đức Mẹ cũng như lòng yêu mến Chúa thôi thúc
chúng ta tìm cuộc sống sung mãn cho tha nhân. Chính vì thế, chúng ta không thể
chỉ đến với Mẹ qua những hành động thuần túy tôn giáo mà không noi gương đấng là
‘anawim’ của Thiên Chúa. Maria là người lữ hành trong đức tin và là nữ tì trung
tín của triều đại chính trực. Lòng sùng kính Mẹ thách thức chúng ta cũng phải
làm đầy tớ và là chiến sĩ của công lý và sự thật trong cuộc chiến muôn thuở
chống lại sự dữ và tà quyền.
Vào ngày 15 tháng 8 tới đây, theo như tin tức của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
thì sẽ có nghi lễ đặt viên đá đầu tiên để xây Vương Cung Thánh Đường tại La
Vang. Đây là một biến cố quan trọng thể hiện lòng sùng kính Mẹ và là một biểu
hiện đặc thù của đức tin Công Giáo Việt Nam. Nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta không
dừng lại ở một hình thức bên ngoài và nhất là tạo nên một biến cố để trang điểm
cho chế độ. Nếu Kitô giáo mà mất vai trò ngôn sứ thì nó bị thuần hóa và trở
thành công cụ của chế độ. Lúc đó, chúng ta không còn là tiếng kêu trong hoang
địa nữa mà sẽ là tiếng chũm chọe kêu inh ỏi (1Cor 13:1); lúc đó chúng ta sẽ như
muối không còn mặn nữa mà chỉ còn chờ ném ra ngoài đường cho người ta đạp lên nó
(Mat 5:13).
Nói tóm lại, lòng sùng kính Đức Mẹ La Vang không thể tách lìa với bổn phận
xây dựng một xã hội theo giá trị của Phúc Âm. Sứ mạng của Đức Kitô là đem sự
sống sung mãn cho con người. Người Kitô hữu chúng ta không thể chỉ dừng lại
trong những hành động tôn giáo mà không kiếm tìm sự sung mãn của đồng loại và
nhất là của đồng bào. Như Mẹ Maria là nữ tì trung tín, xin cho mọi người Công
Giáo Việt Nam trong và ngoài nước cũng trở nên đầy tớ của Tin Mừng, của công lý,
của sự thật trong cuộc chiến chống lại sự dữ và tà quyền. Tôi xin phỏng theo lời
của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II để kết thúc buổi chia sẻ hôm nay:
Xin Mẹ La Vang toàn thắng nơi quê hương chúng ta.
Xin Mẹ toàn thắng ngay cả qua những đau khổ và thất bại của chúng ta.
Xin Mẹ cho chúng ta đừng nản lòng tranh đấu cho công lý và sự thật,
cho tự do và nhân phẩm của con người.
Xin Mẹ đem lại chiến thắng của ánh sáng trên tối tăm, sự lành trên sự dữ,
chí nhân trên cường bạo và đại nghĩa trên hung tàn.
Xin Mẹ toàn thắng ngay cả qua những đau khổ và thất bại của chúng ta.
Xin Mẹ cho chúng ta đừng nản lòng tranh đấu cho công lý và sự thật,
cho tự do và nhân phẩm của con người.
Xin Mẹ đem lại chiến thắng của ánh sáng trên tối tăm, sự lành trên sự dữ,
chí nhân trên cường bạo và đại nghĩa trên hung tàn.
Cùng Mẹ La Vang, chúng ta hãy tiến bước về tương lai tươi sáng cho
dân tộc và cho đất nước.
+Vinh sơn Nguyễn văn Long OFMConv,
Giám mục Hiệu tòa Tala và Giám mục Phụ tá TGP Melbourne, Australia.
Giám mục Hiệu tòa Tala và Giám mục Phụ tá TGP Melbourne, Australia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét