Thứ Ba, 6 tháng 3, 2018

Sám Hối – Hoán Cải (3)

TÍNH CÁCH HOÁN CẢI

Không dám mất đi cái gì, thì cũng chẳng thêm được điều gì. Những cái mất đó là những cái đáng phải mất, đáng phải trút bỏ, để sau khi trống trải thì Chúa mới có thể đổ vào sự sống mới. Đó là sự trao đổi để ta được biến đổi trong Chúa.


“Trở lại nên như trẻ nhỏ” (Mt 18,1-3).

Con người và tính cách của trẻ nhỏ toát lên một vẻ ngây thơ, trong trắng, một nét đẹp còn tinh khôi, chưa bị hoen ố bởi ảnh hưởng của thế tục. Trong Kinh Thánh, trẻ nhỏ được Thiên Chúa ưu đãi, tiêu biểu cho những ai thuộc về Nước Trời (x. Mc 10,15). Trẻ nhỏ đơn sơ lãnh nhận Nước Trời như một ân huệ Chúa ban, không hề nghĩ đến công trạng của mình.
 
Bí quyết trở nên cao trọng là “coi mình như trẻ nhỏ” (Mt 18,4). Những đức tính của trẻ nhỏ như đơn sơ, khiêm nhường, hiền hoà, trong sáng, thật thà, dễ thương… là những đức tính của người môn đệ đích thực. Tuy nhiên, khi mời gọi ta phải hoán cải nên như trẻ nhỏ, Ðức Giêsu không đặt nặng trước tiên những đức tính của chúng cho bằng một tấm lòng không tham vọng. Tham vọng là trở ngại lớn nhất trong việc phát triển đời sống tâm linh. Nó làm mờ đục thâm tâm, mất đi vẻ hồn nhiên trong sáng, và cũng mất đi sự sống ngay từ khởi điểm, nên dù đạt được hay không đạt được tham vọng, ta cũng không thể nào tìm thấy được giá trị chân thật của đời mình. Ta có quyền đặt ra cho mình những hoài bão hay lý tưởng để vươn tới, để sống một cuộc sống phong phú và đầy ý nghĩa, nhưng đó không phải là tham vọng sở hữu, vị kỷ, muốn đưa mình lên cao, hay muốn thấy mình vượt trên mọi người.
 
Tâm lý chung, chẳng ai thích sống bé nhỏ, ai cũng ham làm lớn, ai cũng thích quyền cao chức trọng. Con đường danh vọng quả là một cám dỗ tự nhiên và dai dẳng, dù ngoài xã hội hay trong tôn giáo. Cái bả vinh hoa phù thế dễ làm ta loá mắt và có sức hút lạ lùng, luôn làm đảo điên lòng người, đánh mất sự chân thật và vẻ đẹp thiện hảo tự thâm tâm. Để thoát vòng cương tỏa làm điêu đứng cuộc sống, ta cần bước đi trên con đường bé nhỏ: “Con đường bé nhỏ là một sự năng động của đức cậy, được gợi hứng bởi đức tin, dấn thân trong đức mến. Nó là sự diễn tả điều cốt tuỷ của Phúc Âm” [1]. Đó là con đường của yêu thương khiêm hạ. Chỉ ai cảm nghiệm được tình thương sâu thẳm của Thiên Chúa trên đời sống mình, thì mới có thể sống tâm tình như trẻ nhỏ.
 
Sự thành công và giá trị của ta không phải là lên cao trên bậc thang danh vọng, mà là xuống thấp trong tình yêu khiêm nhu phục vụ. Bình an và hạnh phúc của ta không phải là mở rộng tầm ảnh hưởng và thế lực của bản thân mình, mà là mở rộng tâm hồn để đón nhận mọi sự, và phó thác tất cả cho Thiên Chúa, Ðấng giầu lòng thương xót. Sự nhận biết đó quả là ngoại thường, vì nó giúp ta vượt lên những tầm thường, phá tan bóng tối của cuộc đời vô thường, đi vào những công việc bình thường, nhưng sống với một lòng mến phi thường trong Chúa, Đấng mạc khải chân lý sống cho những tâm hồn bé nhỏ.
Chính nhờ đó mà thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã khám phá ra con đường bé nhỏ thiêng liêng từ việc học biết và suy niệm Lời Chúa. Ai cũng mong có nhiều kiến thức và hiểu biết để khai sáng cuộc đời mình, nhưng nếu không khéo, những tri thức đời này lại khiến ta bành trướng thêm cái “tôi” của mình. Sự nhận biết nền tảng cho mọi hiểu biết là biết rằng mình thuộc về Chúa, được Chúa yêu thương. Đó cũng chính là căn cơ cho việc hoán cải, và làm triển nở sâu rộng đời sống tâm hồn.
 
Ta cũng cần phân biệt việc trở nên như trẻ nhỏ hoặc con đường thơ ấu thiêng liêng khác với cách sống ấu trĩ về phương diện thiêng liêng (infantilisme spirituel). Khi người lớn mà còn có những cách suy nghĩ, phán đoán, nói năng, hành động như trẻ con, người ta gọi đó là người ấu trĩ. Ấu trĩ về phương diện nhân bản hay thiêng liêng thì cũng tương tự như vậy. Ngày xưa, các Tông đồ đã từng cảnh giác các tín hữu về tình trạng này, khuyên họ vươn lên để tiến tới sự trưởng thành trong nhân cách của người Kitô hữu (x.1Pr 2, 2; 1Cr 3, 2).
Thánh Phaolô nói rõ: “Thưa anh em, về mặt phán đoán thì đừng sống như trẻ con; về đàng dữ, sống như trẻ con thì được, nhưng về mặt phán đoán thì phải là người trưởng thành” (1Cr 14, 20). Còn hơn thế nữa, tình trạng trưởng thành đó phải đạt “tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô” (Ep 4,13).
 
Mở ra một lối sống mới (Lc 19,1-10).
Sự hoán cải đích thực khi người ta hoàn toàn giã từ một quá khứ hay một lối sống lầm lạc, để mở ra một lối sống mới. Câu chuyện hoán cải của Giakêu cho ta thấy thế nào là niềm vui lớn lao trong ơn cứu độ của Đức Kitô. Không biết tên ông ta có phải là Giakêu không, hay Luca có ngụ ý khi đặt tên đó cho ông. Vì Giakêu có nghĩa là “người trong sạch”. Một người tội lỗi, làm giầu bất chính bằng nghề thu thuế, làm tay sai cho ngoại bang, là người bị “hư mất”, bị loại trừ khỏi xã hội và tôn giáo Do Thái, mà lại gọi là người trong sạch, nghe có vẻ khôi hài. Nhưng rồi lạ thay, đó là điều mà ông sẽ trở thành, nhờ sự hoán cải chân thành.
 
Sự hoán cải có lẽ đã manh nha trong tâm hồn ông ngay từ lúc ông nghe biết về Đức Giêsu, và tha thiết muốn gặp Ngài. Điều đó chưa thể hiện bằng lời lẽ công khai, nhưng bằng hành vi công khai khi trèo lên cây cao bên vệ đường để nhìn Đức Giêsu đi qua. Phúc Âm cho biết vì ông thấp người nên phải làm thế. Nhưng đường đường là một quan chức thuế vụ, chức tước đâu phải nhỏ mà làm như thế. Nếu không có một ước muốn hoán cải mãnh liệt thì ông đã không dám táo bạo trèo lên cây như vậy. Đó là chuyện của trẻ con, không phải của người lớn, càng không phải của người có chút ít địa vị. Tuy nhiên, khi trèo lên cây xem Chúa đi qua tức là ông coi trọng Chúa hơn danh giá của mình. Ông đã muốn “nên như trẻ nhỏ” ngay từ bước đầu, dù có thể ông chưa nghe biết giáo huấn này của Chúa.
 
Với cái nhìn tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất, Chúa Giêsu luôn đi bước trước để khai mở. Ngài nhận ra tâm trạng và ước muốn hoán cải của Giakêu qua tính cách bên ngoài của ông, nên Ngài cất tiếng gọi: “Giakêu xuống mau đi, vì hôm nay Ta đến trọ nhà ông”. Giakêu thật sự náo nức, ngỡ ngàng: “Ông vội vàng tuột xuống và mừng rỡ đón rước Ngài”. Trong khi đó thì dân chúng xì xầm phê phán Đức Giêsu: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào”. Dân chúng nói cũng phải thôi, một con người cao cả như Đức Giêsu mà lại đến cư ngụ trong nhà người tội lỗi thì đúng là có vấn đề. Tuy nhiên, sự thật không phải như những gì người ta thấy bên ngoài. Cách đánh giá của con người thường thiển cận, hẹp hòi, kết án hơn là khoan dung, cản trở hơn là mở đường. Hơn nữa, họ đâu biết rằng người tội lỗi là đối tượng số một của Đấng Cứu Chuộc. Đó mới là vấn đề.
 
Chúa Giêsu vào nhà Giakêu với thái độ thân thiết, chẳng đòi hỏi ông điều gì, cũng chẳng bắt ông phải hoán cải hay bỏ nghề thu thuế. Nhưng ánh mắt, lời nói, thái độ của Chúa Giêsu đã thổi bùng lên ngọn lửa leo lét nơi Giakêu, và khiến lòng ông tan chảy. Bỗng chốc Giakêu thấy mình được tự do thanh thoát. Những gì xưa kia trói buộc ông, làm ông say mê, bây giờ trở nên vô vị. Vui mừng và sung sướng vì sự hiện diện của Chúa, ông tự động đáp lại bằng tất cả tấm lòng: “Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo, và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Cuối cùng, hoán cải là kết quả của một cảm nhận về tình yêu.
 
Lời của Giakêu thưa với Đức Giêsu khiến ta nhớ lại dụ ngôn về người Biệt phái thưa với Thiên Chúa: “Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,12). Tuy nhiên, giữa hai lời đó có sự khác nhau về động lực và ý hướng: một người thì quy kỷ muốn khoe mình làm tròn nhiệm vụ, một người thì hướng tha vì được ơn Chúa tác động. Người Biệt phái làm một việc nhỏ, vì luật buộc và muốn nêu cao bản thân. Giakêu làm một việc hy sinh lớn, vì cảm nhận được tình yêu Chúa.
 
Việc gặp gỡ Chúa Giêsu đã hoàn toàn làm đảo lộn cuộc đời của Giakêu, khiến ông bị mất mát nhiều, nhưng đưa ông và gia đình ông tới một chân trời tươi sáng, bình an và hạnh phúc hơn nhiều. Đức Bênêđictô XVI khẳng định rằng: “Trở thành Kitô hữu không phải là kết quả của sự lựa chọn đạo đức hoặc ý tưởng cao thượng, mà là cuộc gặp gỡ với một biến cố, một con người, đem lại cho đời sống mình một chân trời mới và một hướng đi quyết định” (Thông điệp Verbum Domini, số 11).
 
Thật ra, bất cứ sự gặp gỡ đích thực nào với Chúa cũng khiến người ta muốn buông bỏ những điều trái lẽ, muốn đền bù, muốn chia sẻ và muốn trao dâng nhiều hơn nữa. Những mất mát bên ngoài chẳng là gì. Không dám mất đi cái gì, thì cũng chẳng thêm được điều gì. Những cái mất đó là những cái đáng phải mất, đáng phải trút bỏ, để sau khi trống trải thì Chúa mới có thể đổ vào sự sống mới. Đó là sự trao đổi để ta được biến đổi trong Chúa.
 
Sự biến đổi của Giakêu là kết quả của một tâm hồn hằng khao khát sự thiện. Nhờ gặp gỡ Chúa mà lòng khao khát đó bừng sáng lên để bước lên con đường về miền tươi sáng. Thánh Gioan Kim Khẩu đưa ra lộ trình sám hối cụ thể để hoán cải là[2]: một là kết án tội lỗi mình (xưng thú); hai là tha thứ cho tha nhân; ba là luôn cầu nguyện; bốn là thực hành bác ái; năm là sống khiêm nhường.
 
Thánh Kinh và các Giáo phụ cũng đã nhấn mạnh nhất đến ba yếu tố: giữ chay, cầu nguyện và bố thí (x. Mt 6, 1-18), là những cách diễn tả sự hối cải đối với bản thân, đối với Thiên Chúa, và đối với tha nhân. Đặc biệt là việc thực hành bác ái vì yêu thương, “vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” (1Pr 4, 8).
 


[1] R. Laurentin, Thérèse de Lisieux, mythe et réalité, Paris 1972, pp. 122-123.
[2] Kinh Sách Mùa Thường Niên, tr. 113.

Không có nhận xét nào:

Tìm kiếm ....