MISERICORDIÆ VULTUS
DUNG MẠO LÒNG THƯƠNG XÓT
Tông Sắc mở Năm Thánh ngoại thường về Lòng Thương Xót
DUNG MẠO LÒNG THƯƠNG XÓT
Tông Sắc mở Năm Thánh ngoại thường về Lòng Thương Xót
Phanxicô,
Giám Mục Rôma, Tôi Tớ của Các Tôi Tớ Thiên Chúa,
gửi đến tất cả những ai đọc Tông Sắc này
Ân Sủng, Lòng Thương Xót và Bình An.
Giám Mục Rôma, Tôi Tớ của Các Tôi Tớ Thiên Chúa,
gửi đến tất cả những ai đọc Tông Sắc này
Ân Sủng, Lòng Thương Xót và Bình An.
1. Dung mạo lòng
thương xót của Chúa Cha chính là Đức Kitô Giêsu. Mầu nhiệm đức tin Kitô
giáo như đã được tóm tắt đầy đủ trong mệnh đề này. Nơi Đức Giêsu
Nazareth, lòng thương xót đã trở nên sống động, hữu hình, và đạt đến tột
đỉnh.
Chúa Cha, Đấng "giàu lòng thương xót" (Ep 2,4), sau khi đã mặc
khải cho Môsê biết danh của Ngài là "Thiên Chúa thương xót và nhân hậu,
nhẫn nại, đầy lòng trắc ẩn và trung tín" (Xh 34,6), đã không ngừng mặc
khải thần tính của Ngài bằng nhiều cách thế và vào nhiều thời điểm khác
nhau. “Lúc đến thời gian viên mãn" (Gl 4,4), khi mọi sự đã được sắp xếp
đúng theo dự định cứu độ, Ngài sai Người Con duy nhất của Ngài đến thế
gian, được sinh ra bởi Trinh Nữ Maria, để mặc khải cho chúng ta biết
trọn vẹn tình yêu của Ngài. Ai thấy Đức Giêsu là thấy Cha (x. Ga 14,9).
Đức Giêsu Nazareth đã mặc khải lòng thương xót của Thiên Chúa bằng lời
nói, hành động và bằng cả bản thân Người (x. Công Đồng Vaticanô II, Dei
Verbum, 4).
2. Chúng ta cần liên
lỉ chiêm ngưỡng mầu nhiệm của lòng thương xót. Đây là suối nguồn tươi
vui, tĩnh lặng và an bình. Đây là điều kiện để chúng ta lãnh nhận ơn cứu
độ. Lòng thương xót là lời mặc khải mầu nhiệm Ba Ngôi Chí Thánh. Lòng
thuơng xót là hành động chung cuộc và tối thượng, qua đó Thiên Chúa đến
với chúng ta. Lòng thương xót là luật căn bản được đặt vào trái tim của
những ai biết dùng đôi mắt chân thành để nhìn vào người anh em gặp thấy
trên đường đời. Lòng thương xót là con đường nối kết Thiên Chúa với con
người, hướng lòng chúng ta về niềm hy vọng sẽ được yêu thương luôn mãi,
bất chấp tội lỗi của chúng ta.
3. Có những lúc
chúng ta được kêu gọi ngắm nhìn lòng thương xót cách chăm chú hơn, để
chính chúng ta trở thành dấu chỉ hữu hiệu cho hành động của Chúa Cha.
Đây là lý do thúc đẩy tôi công bố một Năm Thánh Ngoại thường của Lòng
Thương Xót, như một thời gian thuận lợi cho Giáo Hội, để chứng từ của
các tín hữu được nên mạnh mẽ và hữu hiệu hơn.
Năm Thánh sẽ được
khai mạc vào ngày 8 tháng 12 năm 2015, lễ kính Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên
Tội. Ngày lễ phụng vụ này nhắc nhớ hành động của Thiên Chúa ngay từ ban
đầu trong lịch sử nhân loại. Sau khi nguyên tổ Ađam - Evà phạm tội,
Thiên Chúa đã không muốn bỏ mặc con người dưới quyền lực của sự dữ. Vì
thế, Ngài đã nghĩ đến Đức Maria thánh thiện và được trở nên tinh tuyền
trong tình yêu thương (x. Ep 1,4), và muốn chọn Đức Trinh nữ làm Mẹ Đấng
Cứu Chuộc loài người. Trước sự nặng nề của tội lỗi, Thiên Chúa đã đáp
lại bằng sự tràn đầy của tình yêu. Lòng thương xót luôn lớn hơn tội lỗi
và không ai có thể đặt giới hạn cho tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Tôi
sẽ vui mừng mở Cửa Thánh vào ngày Đại lễ kính Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Trong Năm Thánh này, đó sẽ là Cửa Lòng Thương Xót; bất cứ ai bước vào
qua đó, sẽ cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa là Đấng an ủi, thứ
tha và trao ban niềm hy vọng.
Sau đó, vào Chúa
Nhật thứ ba Mùa Vọng, sẽ mở Cửa Thánh tại Nhà Thờ Chánh Tòa Rôma, tức
Vương Cung Thánh Đường thánh Gioan Latêranô. Vào những tuần tiếp theo,
các Cửa Thánh tại các Vương Cung Giáo Hoàng Thánh Đường khác sẽ được mở
ra. Cũng vào chính Chúa Nhật đó, tôi ấn định rằng, nơi mỗi Giáo Hội địa
phương, có thể mở Cửa Lòng thương xót trong suốt Năm Thánh, tại Nhà Thờ
Chánh Tòa là Thánh Đường Mẹ của tất cả các tín hữu, hoặc tại Nhà thờ
Đồng Chánh Tòa, hoặc tại một thánh đường đặc biệt. Thẩm quyền địa
phương cũng có thể mở Cửa Lòng Thương Xót tại những Đền Thánh có đông
khách hành hương, những người khi đến đó sẽ được ơn thánh tác động trong
tâm hồn và tìm thấy con đường hoán cải. Bởi thế, mỗi Giáo Hội địa
phương sẽ trực tiếp dự phần để sống Năm Thánh này như một tác động ngoại
thường của ân sủng và năng lực canh tân thiêng liêng. Như thế, Năm
Thánh này sẽ được cử hành tại Rôma cũng như tại các Giáo Hội địa phương
như một dấu chỉ hữu hình cho tình hiệp thông toàn cầu của Giáo Hội.
4. Tôi chọn ngày 8
tháng 12 vì ý nghĩa phong phú của ngày này trong lịch sử gần đây của
Giáo Hội. Thật vậy, tôi muốn mở Cửa Thánh vào dịp kỷ niệm 50 năm bế mạc
Công Đồng Chung Vaticanô II. Giáo Hội cần giữ cho biến cố này luôn sống
động. Chính Công Đồng này đã đưa Giáo Hội vào một lối đi mới trong lịch
sử. Các Nghị Phụ Công Đồng đã nhận thức thật rõ ràng, như hơi thở thực
sự của Thánh Thần, nhu cầu phải nói về Thiên Chúa cách sáng tỏ hơn cho
con người thời đại ngày nay. Những bức tường đã từng vây khép Giáo Hội
trong một thứ pháo đài yên ổn, nay đã bị phá bỏ, và đã đến lúc phải loan
báo Tin Mừng cách mới mẻ. Đây là lối đi mới của công cuộc Phúc-âm-hóa
vẫn được thực hiện từ lâu. Đây là phận vụ mới của tất cả các Kitô hữu
nhằm làm chứng cho đức tin cách nhiệt thành và xác tín hơn. Giáo Hội sẽ
quan tâm hơn đến trách nhiệm trở nên dấu chỉ sống động cho tình yêu của
Chúa Cha giữa trần thế.
Chúng ta nhớ lại
những lời nói đầy ý nghĩa của Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, phát biểu
vào ngày khai mạc Công Đồng, để xác định hướng đi của Công Đồng: "Ngày
nay, Hiền Thê của Chúa Kitô muốn sử dụng phương dược của lòng thương xót
hơn là của sự nghiêm khắc... Trong khi giơ cao ngọn đuốc chân lý đức
tin nơi Công Đồng này, Giáo Hội Công Giáo muốn thể hiện chính mình như
một người mẹ đầy yêu thương của tất cả mọi người, một người mẹ từ ái,
nhẫn nại, luôn được thôi thúc bởi lòng thương xót và tình nhân hậu đối
với những người con đang xa rời mẹ" (Diễn từ khai mạc Công Đồng Vaticanô
II, Gaudet Mater Ecclesia, 11.10.1962, 2-3). Chân phước Giáo Hoàng
Phaolô VI cũng phát biểu theo ý hướng đó vào lúc bế mạc Công Đồng:
"Chúng ta muốn nhấn mạnh hơn nữa rằng, nét đặc trưng của Công đồng này
chính là đức ái ... câu chuyện về người Samaria nhân hậu là mẫu gương và
là chuẩn mực cho linh đạo của Công Đồng... Công Đồng đã mang lại cho
con người thời nay nhiều thiện cảm và ngưỡng mộ. Những sai lầm chắc chắn
phải bị loại bỏ, vì đức ái cũng như sự thật đều đòi hỏi điều ấy, nhưng
đối với con người thì chỉ có khuyên bảo, với thái độ tôn trọng và yêu
thương. Thay vì gây nên đau lòng bằng việc xác định bệnh trạng, cần phải
tạo niềm an ủi bằng việc mang lại những phương dược chữa lành; Công
Đồng muốn nói với con người đương đại, không phải những lời tiên đoán
thảm khốc, nhưng là các sứ điệp mang đến hy vọng và tin tưởng… Một điểm
khác cần phải lưu tâm, đó là tất cả giáo huấn phong phú này đều được quy
về một hướng duy nhất, đó là phục vụ con người, trong mọi tình huống
của cuộc sống, trong từng nhược điểm và trong mọi nhu cầu" (Diễn từ bế
mạc Công Đồng Vaticanô II, 7.12.1965).
Với tâm tình tri ân
cảm tạ về những gì Giáo Hội đã nhận lãnh, và với ý thức trách nhiệm về
trách vụ trước mắt, chúng ta sẽ bước qua Cửa Thánh, với trọn niềm tín
thác vào sức mạnh của Chúa Phục Sinh không ngừng nâng đỡ và bảo vệ chúng
ta trên đường lữ hành. Xin Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn dắt từng bước đi
của các tín hữu trong việc cộng tác vào công trình cứu độ do Chúa Kitô
thực hiện, luôn hướng dẫn và giúp đoàn Dân Chúa chiêm ngưỡng dung mạo
của lòng thương xót (x. CĐ Vaticanô II, Lumen Gentium, 16; Gaudium et
Spes, 15).
5. Năm Thánh sẽ bế
mạc vào Đại lễ kính Chúa Kitô Vua vũ trụ, ngày 20 tháng 11 năm 2016.
Trong ngày đó, chúng ta sẽ đóng Cửa Thánh lại trong tâm tình tri ân cảm
tạ Ba Ngôi Chí Thánh đã ban cho chúng ta một thời gian ngoại thường của
ân sủng. Chúng ta ký thác đời sống Giáo Hội, tất cả mọi người và toàn
thể vũ trụ này cho Chúa Kitô, xin Chúa tuôn đổ lòng thương xót của Người
như sương mai, thúc đẩy mọi người cùng hoạt động để xây dựng một tương
lai trổ sinh hoa trái dồi dào. Tôi mong muốn biết bao cho những năm sắp
tới được ngập tràn lòng thương xót, đưa chúng ta đến với mọi người, mang
lại cho họ lòng nhân từ và khoan hậu của Thiên Chúa. Chớ gì hương thơm
của lòng thương xót lan tỏa đến tất cả mọi người, các tín hữu cũng như
những người đang còn xa cách, như là dấu chỉ của Vương quốc Thiên Chúa
đang ở giữa chúng ta.
6. "Thực thi lòng
thương xót là đặc điểm riêng của Thiên Chúa, và đó là cách thức đặc biệt
để Ngài bày tỏ sự toàn năng của Ngài" (Thánh Tôma Aquinô, Summa
Theologiae, II-II, q. 30, a. 4). Những lời của Thánh Tôma Aquinô cho
thấy lòng thương xót của Thiên Chúa không phải là dấu chỉ của sự bất
tài, nhưng là của sự toàn năng. Vì thế, trong một lời nguyện nhập lễ rất
cổ xưa, phụng vụ đã cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa, Chúa thể hiện quyền
năng của Chúa cách tỏ tường nhất khi Chúa tha thứ và xót thương..."
(Chúa Nhật XXVI Thường niên. Lời Tổng nguyện này có từ thế kỷ VIII,
trong các văn bản Thánh Thể học của tập Sacramentarium Gelasianum
[1198]). Trong lịch sử nhân loại, Thiên Chúa bao giờ cũng là Đấng hiện
diện, gần gũi, quan phòng, thánh thiện và đầy lòng thương xót.
"Nhẫn nại và hay
thương xót" là những lời thường đi liền nhau trong Cựu Ước để diễn tả
bản tính của Thiên Chúa. Bản tính thương xót của Ngài được thể hiện cách
cụ thể qua nhiều hành động trong lịch sử cứu độ, nơi mà lòng nhân hậu
của Ngài chiếm ưu thế hơn là trừng phạt và hủy diệt. Các Thánh vịnh đặc
biệt nhấn mạnh đến sự cao cả nơi hành động của Thiên Chúa: "Ngài thứ tha
mọi lầm lỗi của ngươi, Ngài chữa lành tất cả bệnh hoạn của ngươi, Ngài
cứu chuộc sự sống ngươi khỏi huyệt sâu, Ngài vinh thăng ngươi với lòng
thương xót và lòng trắc ẩn" (Tv 103,3-4). Một Thánh vịnh khác còn chứng
thực rõ ràng hơn về những dấu chỉ cụ thể của lòng thương xót: "Chúa giải
thoát tù nhân, Chúa mở mắt cho kẻ đui mù, Chúa nâng dậy những người bị
áp bức, Chúa yêu thương người công chính, Chúa bảo vệ khách kiều cư,
nâng đỡ cô nhi quả phụ và phá tan lối đi của người gian ác" (Tv
146,7-9). Và một số câu Thánh vịnh khác: "Ngài chữa lành những người bị
dập nát tâm can và băng bó các thương tích của họ...
Chúa nâng dậy những
kẻ bị chà đạp, hạ kẻ gian ác xuống đến sát đất" (Tv 147,3.6). Như thế,
lòng thương xót của Thiên Chúa không phải là một điều gì trừu tượng,
nhưng là một thực tại cụ thể, qua đó Ngài tỏ bày tình yêu của Ngài, như
tình yêu của một người cha hay một người mẹ, tan nát ruột gan vì con của
mình. Phải nói đây là một tình yêu "thấu tận ruột gan". Tình yêu này
phát xuất từ thẳm sâu tâm hồn, thật tự nhiên, đầy nhân từ và trắc ẩn,
khoan dung và luôn tha thứ.
7. "Vì lòng thương
xót của Chúa bền vững muôn đời": đây là điệp khúc được lập lại sau mỗi
câu trong Thánh vịnh 136, khi kể lại lịch sử của việc Thiên Chúa đang tỏ
mình ra. Yếu tố lòng thương xót làm cho tất cả các biến cố trong Cựu
Ước mang ý nghĩa cứu độ sâu xa. Lòng thương xót làm cho lịch sử của
Thiên Chúa nơi dân tộc Israel trở thành lịch sử cứu độ. Khi lập lại liên
tục câu "vì lòng thương xót của Chúa bền vững muôn đời", Thánh vịnh này
như muốn phá vỡ vòng vây của không gian và thời gian, để đặt tất cả vào
mầu nhiệm của tình yêu. Thánh vịnh như thể muốn nói rằng, không chỉ
trong lịch sử, nhưng cho đến đời đời, con người vẫn luôn sống dưới ánh
mắt thương xót của Chúa Cha. Không phải ngẫu nhiên mà dân Israel đưa
Thánh vịnh này, được gọi là "Bản trường ca Hallel" - vào những ngày lễ
phụng vụ quan trọng nhất.
Trước khi chịu khổ
nạn, Chúa Giêsu đã cầu nguyện bằng Thánh vịnh lòng thương xót này. Thánh
sử Matthêu chứng thực điều ấy khi nói "đọc thánh ca xong" (26,30), Chúa
Giêsu và các môn đệ đi lên núi Cây Dầu. Khi thiết lập bí tích Thánh
Thể, để muôn đời tưởng nhớ đến Người và cuộc Vượt qua, Chúa Giêsu đã đặt
động tác tối thượng này của mặc khải dưới ánh sáng của lòng thương xót.
Cũng trong chính bối cảnh lòng thương xót ấy, Chúa Giêsu đã trải qua
cuộc khổ nạn và cái chết, với ý thức về mầu nhiệm tình yêu cao cả sẽ
diễn ra trên cây Thập giá. Được chính Chúa Giêsu dùng để cầu nguyện,
Thánh vịnh này càng đáng được quí chuộng hơn nơi các Kitô hữu chúng ta,
thúc đẩy chúng ta luôn lập lại trong đời sống hằng ngày điệp khúc: "vì
lòng thương xót của Chúa bền vững muôn đời".
8. Khi chăm chú
ngắm nhìn Chúa Giêsu và dung mạo lòng thương xót của Người, chúng ta có
thể cảm nhận được tình yêu của Ba Ngôi Chí Thánh. Chúa Giêsu đã lãnh
nhận từ Chúa Cha sứ vụ mặc khải trọn vẹn mầu nhiệm tình yêu của Thiên
Chúa. "Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8.16), Thánh sử Gioan khẳng định
như thế lần đầu tiên và là lần duy nhất trong toàn bộ Thánh Kinh. Tình
yêu ấy giờ đây trở nên hữu hình và được tỏ bày trong cả cuộc sống của
Chúa Giêsu. Bản thân Người không gì khác hơn là tình yêu, một tình yêu
được ban tặng cách vô điều kiện. Các mối liên hệ giữa Người và những ai
tìm đến với Người, là một tương quan đặc thù duy nhất và không thể tái
diễn. Những dấu lạ Người thực hiện, nhất là cho các tội nhân, cho những
người nghèo khổ, những người bị gạt ra bên lề xã hội, cho các bệnh nhân
và những người đau khổ, tất cả đều mang dấu ấn của lòng thương xót. Tất
cả mọi sự nơi Người đều tỏ bày cho thấy lòng thương xót. Không có gì nơi
Người lại thiếu vắng lòng thương xót.
Khi nhìn đám đông
dân chúng đi theo mình, Chúa Giêsu thấy họ mệt mỏi và kiệt sức, lạc loài
và không người chăn dắt, Người đã chạnh lòng thương (x. Mt 9,36). Với
tình yêu xót thương này, Người đã chữa lành các bệnh nhân được mang đến
cho Người (x. Mt 14,14), và với một ít bánh và cá, Người đã cho đám đông
được ăn no thỏa (x. Mt 15,37). Điều đã tác động Chúa Giêsu trong tất cả
các trường hợp đó, không gì khác hơn là lòng thương xót, một lòng
thương xót hiểu được tâm tư của những kẻ Người gặp gỡ, và Người đến để
đáp ứng những nhu cầu chân thực nhất của họ. Khi gặp bà góa thành Nain
đang đưa người con trai duy nhất của mình đi chôn, Người đã chạnh lòng
thương trước nỗi đau tận cùng của người mẹ đang khóc con, và đã trao lại
cho bà người con được hồi sinh từ cõi chết (x. Lc 7,15). Sau khi trừ
quỷ cho một người ở Ghêrasa, Người trao cho anh ta sứ mạng "trở về với
thân nhân, nói cho họ biết việc Chúa đã làm cho anh, và đã thương xót
anh như thế nào" (Mc 5,19). Việc kêu gọi Matthêu cũng xảy ra trong khung
cảnh của lòng thương xót. Khi Chúa Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế,
ánh mắt Người chăm chú nhìn vào đôi mắt của Matthêu. Ánh mắt đầy lòng
thương xót đã thứ tha tội lỗi của con người ấy, và bất chấp sự phản đối
của các môn đệ khác, Người đã chọn Matthêu, một kẻ tội lỗi và là người
thu thuế, để trở thành một trong Nhóm Mười Hai. Thánh Bêđa Venerabilis,
khi diễn giải đoạn Tin Mừng này, đã viết: Chúa Giêsu đã chăm chú nhìn và
đã chọn Matthêu “miserando atque eligendo” (x. Hom. 21: CCL, 122,
149-151). Lời diễn giải này đã đánh động tôi đến độ tôi đã chọn làm câu
tâm niệm.
9. Trong các dụ
ngôn về lòng thương xót, Chúa Giêsu đã mặc khải bản tính của Thiên Chúa
như một Người Cha không bao giờ bỏ cuộc cho đến khi nào thực hiện được
việc tha thứ tội lỗi và chế ngự thái độ cự tuyệt bằng sự cảm thông và
lòng thương xót. Chúng ta đã quá biết những dụ ngôn ấy, đặc biệt là ba
dụ ngôn: về con chiên lạc, về đồng xu thất lạc và về người cha với hai
đứa con (x. Lc 15,1-32). Các dụ ngôn này cho thấy Thiên Chúa luôn tràn
ngập vui mừng, nhất là khi Ngài tha thứ. Nơi những dụ ngôn ấy, chúng ta
thấy được điểm cốt lõi của Tin Mừng và của đức tin, vì lòng thương xót
tỏ hiện như một sức mạnh vượt thắng tất cả, đong đầy trái tim bằng tình
yêu thương và mang lại an ủi bằng ơn tha thứ.
Trong một dụ ngôn
khác, chúng ta nhận được một giáo huấn quan trọng cho đời sống Kitô hữu.
Để trả lời cho câu hỏi của Phêrô về số lần phải tha thứ, Chúa Giêsu
nói: "Thầy không bảo là bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy" (Mt 18,22) và
Người kể dụ ngôn về "người đầy tớ nhẫn tâm". Khi bị chủ đòi một món
tiền nợ khổng lồ, hắn đã quì xuống van xin và chủ đã tha hết nợ cho hắn.
Nhưng sau đó hắn gặp một người cũng là đầy tớ như hắn, người này mắc nợ
hắn vài xu, và anh ta quỳ xuống van xin hắn thương tình, nhưng hắn từ
khước và tống người kia vào tù. Khi chủ nghe biết thì vô cùng tức giận,
gọi hắn lại mà bảo: "Tại sao ngươi không thương xót bạn ngươi như ta đã
thương xót ngươi?" (Mt 18,33). Và Chúa Giêsu kết luận: "Cha Thầy ở trên
trời cũng sẽ đối xử với các con như vậy, nếu mỗi người trong các con
không thật lòng tha thứ cho anh em mình" (Mt 18,35).
Dụ ngôn này chứa
đựng một giáo huấn tuyệt vời cho mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu khẳng
định lòng thương xót không chỉ là một hành động của Chúa Cha, nhưng còn
là tiêu chuẩn để nhận biết ai là con cái thật của Ngài. Tóm lại, chúng
ta được kêu gọi để sống lòng thương xót, vì lòng thương xót đã được ban
cho chúng ta trước. Việc tha thứ những xúc phạm là một thể hiện rõ ràng
nhất của tình yêu thương xót, và đối với các Kitô hữu chúng ta, đây là
một mệnh lệnh không thể bỏ qua. Có những lúc dường như thật khó để thứ
tha. Nhưng tha thứ là một khí cụ được đặt vào đôi tay mỏng dòn của chúng
ta để tìm được sự thanh thản cho tâm hồn. Giải tỏa những hờn ghét, giận
dữ, bạo lực và trả thù là những điều kiện cần thiết để sống hạnh phúc.
Bởi thế, chúng ta hãy nghe lời huấn dụ của Thánh Tông đồ: "Đừng để mặt
trời lặn mà cơn giận vẫn còn" (Ep 4,26). Nhưng trên hết, hãy lắng nghe
lời Chúa Giêsu, Đấng đã xác định lòng thương xót chính là sự hoàn thiện
của cuộc sống và là tiêu chuẩn cho sự khả tín của đức tin: "Phúc cho ai
biết thương xót, vì họ sẽ được xót thương " (Mt 5,7): đây là mối phúc
chúng ta đặc biệt cần phải khao khát trong Năm Thánh này.
Như chúng ta đã
thấy, trong Thánh Kinh, lòng thương xót là từ then chốt để nói về hành
động của Thiên Chúa đối với chúng ta. Ngài không chỉ khẳng định, nhưng
còn làm cho tình yêu của Ngài trở nên hữu hình và có thể chạm đến được.
Quả thực, tình yêu không bao giờ là một từ ngữ trừu tượng. Tự bản chất,
tình yêu nói lên điều gì đó cụ thể: ý hướng, thái độ và cách hành xử
được thể hiện trong cuộc sống hằng ngày. Lòng thương xót của Thiên Chúa
là trách nhiệm của Ngài đối với chúng ta. Ngài cảm thấy bị ràng buộc với
chúng ta, nghĩa là Ngài muốn điều tốt cho chúng ta, muốn thấy chúng ta
hạnh phúc, vui tươi và an bình. Đó chính là hướng đi của tình yêu thương
xót của các Kitô hữu. Cha yêu thương thế nào thì con cái cũng phải yêu
thương như vậy. Chúa Cha là Đấng thương xót chúng ta, chúng ta cũng được
mời gọi phải thương xót nhau.
10. Trụ cột nâng đỡ
đời sống Giáo Hội chính là lòng thương xót. Tất cả các hoạt động mục vụ
của Giáo Hội cần phải được thấm đẫm sự dịu dàng; không một sứ điệp và
chứng từ nào của Giáo Hội trước thế giới lại có thể vắng bóng lòng
thương xót. Tình yêu thương xót và thông cảm chính là phương thế để củng
cố tính cách đáng tin của Giáo Hội. Giáo Hội "vô cùng khao khát trao
ban lòng thương xót" (Tông huấn Evangelii Gaudium, 24). Có lẽ từ lâu
chúng ta đã quên trình bày và sống theo lối đi của lòng thương xót. Một
đàng, cám dỗ muốn chỉ tập trung vào công lý làm chúng ta quên rằng đó
chỉ là bước đầu, đương nhiên là cần thiết và không thể thiếu, nhưng Giáo
Hội phải tiến xa hơn để đạt tới một mục tiêu cao hơn và quan trọng hơn.
Đàng khác, thật đáng buồn khi nhận ra trải nghiệm về tha thứ ngày càng
trở nên hiếm thấy trong nền văn hoá ngày nay. Kể cả đôi khi từ ngữ này
dường như cũng đang dần biến mất. Tuy nhiên, không có chứng từ của sự
tha thứ, thì đời sống sẽ cằn cỗi không sinh hoa trái, như bị cô lập
trong vùng hoang mạc trống vắng. Đã đến lúc Giáo Hội phải thực thi phận
vụ hân hoan loan báo sự tha thứ. Đã đến lúc trở về với điều căn bản là
mang lấy những yếu hèn và khó khăn của anh chị em chúng ta. Sự tha thứ
là động lực làm bừng lên sức sống mới và truyền thêm can đảm để giữ vững
niềm hy vọng cho tương lai.
11. Chúng ta không
thể quên giáo huấn sâu sắc của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II gửi cho
chúng ta trong Thông điệp thứ hai của ngài, Dives in Misericordia, một
Thông điệp được công bố ngoài mong đợi vào thời điểm ấy, và đề tài được
đưa ra cũng làm nhiều người kinh ngạc. Tôi đặc biệt nhớ đến hai đoạn.
Đoạn thứ nhất, vị Thánh giáo hoàng nêu lên sự kiện lòng thương xót đang
bị lãng quên trong văn hóa ngày nay: "Tâm thức của con người ngày nay,
có lẽ hơn là trong quá khứ, dường như muốn chống lại Thiên Chúa của lòng
thương xót, cố ý loại trừ ý niệm thương xót ra khỏi cuộc sống và xóa bỏ
khỏi trái tim con người. Từ ngữ và ý niệm thương xót dường như gây bất
an cho con người, những kẻ đã dành quyền làm chủ và thống trị trái đất
(x. St 1,28) nhờ những tiến bộ vượt bậc về khoa học và kỹ thuật chưa
từng thấy trong lịch sử. Việc thống trị trái đất, đôi khi được hiểu theo
một chiều và thật nông cạn, dường như không còn dành chỗ cho tình
thương. Đó là lý do giải thích tại sao, trong Giáo Hội và thế giới ngày
nay, nhiều cá nhân và tập thể, được dẫn dắt bởi một cảm thức sống động
về đức tin, đang hướng về lòng thương xót của Thiên Chúa có thể nói là
một cách bộc phát tự nhiên” (Tông huấn Evangelii Gaudium, 2).
Ngoài ra, thánh
Gioan Phaolô II cũng giải thích tại sao phải nỗ lực tối đa để công bố và
làm chứng cho lòng thương xót trong thế giới ngày nay: "Lòng thương xót
được điều động bởi tình yêu dành cho con người, cho tất cả những gì là
nhân bản và những gì, theo nhận định của nhiều người ngày nay, đang bị
đe dọa nghiêm trọng. Đồng thời mầu nhiệm Chúa Kitô... thúc bách chúng ta
phải loan báo lòng thương xót như là tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa,
được tỏ bày nơi chính mầu nhiệm Chúa Kitô. Mầu nhiệm này cũng mời gọi
chúng ta quay về và khẩn nài lòng thương xót ấy trong thời kỳ khó khăn
và mang tính quyết định này của lịch sử Giáo Hội và thế giới” (Th. Gioan
Phaolô II, Thông điệp Dives in Misericordia, 15). Giáo huấn của ngài
vẫn còn giá trị và đáng để chúng ta học hỏi trong Năm Thánh này. Một lần
nữa hãy nghe ngài nói: “Giáo Hội có được đời sống chân thực khi tuyên
xưng và phổ biến lòng thương xót - thuộc tính kỳ diệu nhất của Đấng Tạo
Thành và Cứu Chuộc - cũng như khi đưa con người đến nguồn mạch của lòng
thương xót nơi Đấng Cứu Thế, lòng thương xót được giữ gìn và phân phát
bởi chính Giáo Hội" (Th. Gioan Phaolô II, Thông điệp Dives in
Misericordia, 13).
12. Sứ mạng của
Giáo Hội là loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa, là trái tim sống
động của Tin Mừng, đang muốn nhờ lòng thương xót để chạm được đến con
tim và khối óc của con người. Hiền Thê của Đức Kitô phải noi theo cách
sống của Con Thiên Chúa, Đấng đã đến với mọi người, không loại trừ ai.
Thời đại ngày nay, khi Giáo Hội đang thực thi công cuộc Tân Phúc-âm-hóa,
lòng thương xót quả là cần thiết để một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới
và canh tân các hoạt động mục vụ . Điều tối quan trọng đối với Giáo Hội
cũng như với tính cách đáng tin của lời Giáo Hội rao giảng chính là sống
và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và hành động của Giáo Hội
cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và
giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha.
Chân lý đầu tiên của
Giáo Hội là tình yêu Chúa Kitô. Giáo Hội muốn trở thành nữ tỳ và người
trung gian của tình yêu ấy, một tình yêu tha thứ và tự hiến. Vì thế, nơi
đâu có Giáo Hội hiện diện, thì nơi đó lòng thương xót của Chúa Cha phải
được tỏ hiện. Trong các giáo xứ, các cộng đoàn, hiệp hội và phong trào,
nói chung, ở đâu có các Kitô hữu hiện diện, thì ở đấy bất cứ ai cũng sẽ
gặp thấy một tụ điểm chan hòa lòng thương xót.
13. Chúng ta muốn
sống Năm Thánh này dưới ánh sáng của câu Lời Chúa: Thương xót như Chúa
Cha. Tác giả Tin Mừng ghi lại lời dạy của Chúa Giêsu: "Hãy thương xót
như Cha các con là Đấng đầy lòng thương xót" (Lc 6,36). Đây là một
chương trình sống đòi hỏi nhiều nỗ lực nhưng cũng tràn đầy niềm vui và
an bình. Lệnh truyền của Chúa Giêsu gửi đến tất cả những ai muốn nghe
lời Người (x. Lc 6,27). Để có thể sống lòng xót thương, trước tiên chúng
ta cần biết lắng nghe Lời Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là phải tái khám
phá giá trị của sự thinh lặng, để suy niệm chính Lời đang muốn nói với
chúng ta. Đó là cách thức để chúng ta có thể chiêm ngưỡng lòng thương
xót của Thiên Chúa và biến lòng thương xót ấy thành nếp sống riêng của
chúng ta.
14. Việc hành hương
trong Năm Thánh là một dấu chỉ đặc biệt, vì mang hình ảnh của cuộc hành
trình mỗi người chúng ta đang thực hiện trong cuộc sống. Cuộc đời là một
chuyến hành hương, và con người là khách lữ hành, là người hành hương
đang tiến bước trên đường đi về đích điểm ước mong. Cũng thế, để đến Cửa
Thánh ở Rôma hay ở những nơi khác, mỗi người phải hoàn tất chuyến hành
hương tùy theo khả năng. Chuyến đi ấy cho thấy lòng thương xót chính là
đích điểm phải đạt tới, đòi hỏi phải dấn thân và hy sinh. Ước gì cuộc
hành hương sẽ thúc đẩy sự hoán cải: khi bước qua Cửa Thánh, chúng ta để
cho lòng thương xót của Thiên Chúa phủ kín chúng ta, và nỗ lực thực thi
lòng thương xót đối với tha nhân như Chúa Cha đã thương xót chúng ta.
Chúa Giêsu dạy chúng
ta biết những chặng đường hành hương để có thể đạt tới đích điểm ấy, đó
là: "Đừng xét đoán để các con khỏi bị xét đoán; đừng lên án để các con
khỏi bị lên án; hãy tha thứ thì các con sẽ được tha thứ; hãy cho thì các
con sẽ được lãnh nhận: chiếc đấu đong đầy, đã dằn, đã lắc sẽ được đổ
vào vạt áo các con; vì các con đong bằng đấu nào, cũng sẽ được đong lại
bằng đấu ấy" (Lc 6,37-38). Trước tiên, Chúa dạy chúng ta đừng phán xét
cũng đừng lên án. Nếu ai muốn không bị Thiên Chúa phán xét, thì đừng
biến mình thành quan án của anh chị em mình. Con người chỉ đoán xét cách
thiển cận, còn Chúa Cha nhìn thấu tận tâm can. Những lời nói chứa đầy
đố kỵ và ganh ghét đã gây ra biết bao tai hại. Nói xấu người anh chị em
vắng mặt, chẳng khác gì đẩy người ấy vào bóng tối, làm mất thanh danh và
gây tiếng xấu cho người ấy. Ai không đoán xét và lên án, sẽ nhận ra
được điều tốt vẫn có nơi mọi người, và không làm người khác đau khổ vì
sự xét đoán bất cập và vì tính tự phụ của chúng ta, cho rằng mình biết
hết mọi sự. Nhưng điều đó vẫn chưa đủ để thể hiện lòng thương xót. Chúa
Giêsu cũng dạy chúng ta phải biết tha thứ và sẵn sàng cho đi. Hãy trở
thành khí cụ của ơn tha thứ chúng ta đã từng lãnh nhận từ Thiên Chúa.
Hãy quảng đại với tất cả mọi người, vì biết rằng Thiên Chúa đã vô cùng
rộng lượng khi tuôn đổ lòng hảo tâm của Ngài trên chúng ta.
Vì thế, “Thương xót
như Chúa Cha” là câu tâm niệm của Năm Thánh. Lòng thương xót là bằng
chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta thế nào. Ngài đã trao ban
chính mình cho chúng ta cách liên lỉ, vô điều kiện, chẳng đòi lại gì.
Khi chúng ta kêu cầu, Ngài liền đến trợ giúp. Thật đẹp khi Giáo Hội bắt
đầu kinh nguyện hằng ngày bằng câu: "Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con.
Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ" (Tv 70,2). Sự trợ giúp chúng ta cầu xin
đã là bước đầu của lòng thương xót Thiên Chúa dành cho chúng ta. Ngài
đến để cứu chúng ta khỏi những yếu hèn. Và ơn phù trợ của Ngài chính là
để giúp chúng ta tiếp nhận sự hiện diện và sự gần gũi của Ngài. Trong
mỗi ngày sống, nhận được sự cảm thông của Thiên Chúa, chúng ta cũng có
thể bày tỏ lòng cảm thông đối với mọi người.
15. Trong Năm Thánh
này, chúng ta có thể trải nghiệm việc mở lòng tiếp nhận những người đang
sống tại những vùng ven xa xôi nhất của kiếp nhân sinh, thường được tạo
nên trong cảnh khốn cùng do chính thế giới ngày nay. Hiện có biết bao
tình cảnh đói nghèo và khổ đau trong thế giới ngày nay. Có biết bao vết
thương trầm trọng nơi thân xác những người không còn tiếng nói, vì tiếng
kêu than của họ bị lấn át và dìm tắt bởi thái độ thờ ơ, hờ hững của
những dân tộc giàu có. Trong Năm Thánh này, Giáo Hội được mời gọi nhiều
hơn để chữa trị và xoa dịu các thương tích bằng dầu an ủi, dùng lòng
thương xót để băng bó, dùng tình liên đới và thái độ ân cần quan tâm để
chữa lành những vết thương ấy. Chúng ta đừng để mình ngập ngừng trong
thái độ dửng dưng đáng xấu hổ, trong những thói quen thường ru ngủ tinh
thần và cản trở chúng ta khám phá những điều mới mẻ, hay trong hành vi
nhẫn tâm đang gây nhiều chia rẽ. Hãy mở to mắt để nhận ra tình trạng
khốn khổ của thế giới, để thấy những vết thương của anh chị em chúng ta
đang bị tước mất nhân phẩm, và ý thức rằng chính chúng ta được mời gọi
lắng nghe tiếng họ kêu gào xin được cứu giúp. Ước gì bàn tay chúng ta
nắm lấy đôi tay họ và kéo họ đến với chúng ta, Ước chi tiếng nói của họ
trở thành tiếng nói của chúng ta, và ước chi chúng ta có thể chung tay
phá đổ những rào cản của thái độ dửng dưng lãnh đạm, vẫn thường được
dùng để che giấu thói giả hình và tính ích kỷ.
Ước muốn tha thiết
của tôi trong Năm Thánh này là, đoàn dân Kitô hữu sẽ quan tâm đến những
hành vi của lòng thương xót, về phần xác cũng như phần hồn. Đây chính
là cách thế để thức tỉnh lương tâm chúng ta, thường vẫn ngủ yên trước
thảm hoạ nghèo khổ, và ngày càng đi sâu hơn vào trái tim của Tin Mừng,
nơi những người nghèo được hưởng ưu quyền đặc biệt nơi lòng thương xót
của Thiên Chúa. Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết các hành vi thương xót
đó, để chúng ta biết mình có sống đúng là môn đệ của Người không. Chúng
ta hãy tái khám phá những hành vi thương xót, chẳng hạn Thương xác bảy
mối, đó là cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc,
viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, cho khách đỗ nhà, chuộc kẻ làm tôi, chôn
xác kẻ chết. Và chúng ta đừng quên Thương linh hồn bảy mối, đó là lấy
lời lành mà khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ
có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
Chúng ta không thể
lẩn tránh những lời Chúa dạy, lời sẽ phán xét chúng ta, đó là chúng ta
có cho kẻ đói ăn và cho kẻ khát uống, có cho khách đỗ nhà và cho kẻ rách
rưới ăn mặc, có viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc hay không (x. Mt
25,31-45). Ngoài ra, chúng ta cũng phải trả lẽ về việc có giúp cho người
khác thoát khỏi ngờ vực, một tâm trạng vẫn gây nên lo sợ và thường đưa
đến cô đơn không; chúng ta có nỗ lực giúp giải quyết nạn thất học của
biết bao nhiêu người, nhất là những trẻ em không có phương tiện cần
thiết để thoát khỏi cảnh nghèo không; chúng ta có đến gặp gỡ người lẻ
loi cô độc và đang buồn chán không; chúng ta có tha thứ cho người xúc
phạm đến chúng ta, có loại bỏ mọi hình thức oán hận và thù ghét dẫn đến
bạo lực không; chúng ta có nhẫn nại như Thiên Chúa là Đấng vô cùng kiên
nhẫn với chúng ta không; và cuối cùng, khi cầu nguyện, chúng ta có trao
dâng anh chị em chúng ta cho Chúa không. Chính Chúa Kitô hiện diện nơi
mỗi người trong "những kẻ hèn mọn" đó. Thân xác Người trở nên hữu hình
nơi thân xác những người bị hành hạ, bị gây thương tích, bị đánh đập, bị
thiếu dinh dưỡng, bị truy đuổi... để cho chúng ta nhận ra, chạm tới và
ân cần chăm sóc. Chúng ta đừng quên những lời của thánh Gioan Thánh Giá:
"Vào lúc cuối đời, chúng ta sẽ chịu phán xét về tình yêu" (Avisos y
sentencias, 57).
16. Trong Tin Mừng
theo Thánh Luca, chúng ta thấy một yếu tố quan trọng khác có thể giúp
chúng ta sống Năm Thánh với đức tin. Thánh sử kể lại việc Chúa Giêsu,
vào một ngày sabbat, đã trở về Nazareth, và như thói quen, Người vào hội
đường. Người ta mời Người đọc và diễn giải Sách Thánh. Đoạn sách tiên
tri Isaia viết: "Thần Khí của Chúa là Thiên Chúa ngự trên tôi, vì Chúa
đã xức dầu cho tôi, sai tôi mang tin vui cho người nghèo khó, băng bó
những tấm lòng sầu muộn, loan báo sự giải thoát cho kẻ bị tù đầy và mở
cửa ngục tù; công bố năm hồng ân của Chúa" (Is 61,1-2). "Năm của lòng
thương xót", đó là điều Chúa loan báo và cũng là điều chúng ta muốn
sống. Năm Thánh mang ý nghĩa phong phú của sứ mạng Chúa Giêsu, được vọng
lại qua lời của vị ngôn sứ, đó là một lời nói hay cử chỉ để an ủi kẻ
nghèo khổ, là loan báo tự do cho những người bị khống chế bởi những hình
thức nô lệ mới trong xã hội ngày nay, là trả lại thị lực cho những
người không còn khả năng nhìn thấy gì khác vì chỉ lo nhìn vào bản thân,
là phục hồi phẩm giá cho những người đã bị mất nhân phẩm. Lời giảng dạy
của Chúa Giêsu có thể được nhận thấy nơi cách đáp trả của đức tin mà các
Kitô hữu được kêu gọi để làm chứng. Ước chi lời của thánh Phaolô Tông
đồ luôn nhắc nhở chúng ta: “Ai thương xót, hãy thương xót cách vui vẻ”
(x. Rm 12,8).
17. Mùa Chay trong
Năm Thánh này cũng phải được sống cách sâu sắc hơn như một thời điểm đặc
biệt để cử hành và cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta
có thể suy niệm nhiều trang Thánh Kinh trong các tuần Mùa Chay để nhận
ra dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha. Chúng ta có thể nhắc lại lời
tiên tri Micêa: Lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa luôn bỏ qua điều sai phạm
và thứ tha tội lỗi, Chúa không giữ mãi cơn thịnh nộ, nhưng muốn thực thi
lòng thương xót. Lạy Chúa, Chúa sẽ nhìn đến chúng con và xót thương dân
Chúa. Chúa sẽ chà đạp và ném mọi tội lỗi chúng con xuống lòng biển sâu
(x. Mca 7,18-19).
Chúng ta cũng có thể
suy niệm cách cụ thể câu nói của tiên tri Isaia trong mùa cầu nguyện,
chay tịnh và làm việc bác ái này: "Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng
phải là thế này sao: bỏ xiềng xích bất công, mở dây tháo ách, giải thoát
cho người bị áp chế, đập tan mọi gánh nặng? Nào chẳng phải là chia cơm
bánh cho người đói, đón vào nhà những người nghèo túng lang thang; thấy
kẻ mình trần thì cho áo che thân, không coi khinh anh em đồng loại? Bấy
giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, ngươi sẽ được nhanh chóng
chữa lành; và đức công chính sẽ đi trước mặt ngươi, vinh quang Chúa bao
bọc lấy ngươi. Bấy giờ, ngươi kêu lên, Chúa sẽ nhậm lời, ngươi kêu cầu,
Người sẽ nói: ‘Này Ta đây’. Nếu ngươi loại bỏ những gông ách nặng nề, cử
chỉ đe doạ và lời nói độc ác, nếu ngươi quảng đại sớt chia cho kẻ đói,
đem niềm vui cho người ưu phiền, thì ánh sáng ngươi sẽ rực lên trong
bóng tối, và đêm tối nơi ngươi sẽ nên như chính ngọ. Chúa sẽ luôn dìu
dắt ngươi, cho ngươi no thoả giữa nơi khô cằn và cho xương cốt ngươi nên
cứng cáp; và ngươi sẽ như khu vườn được tưới đẫm, như mạch nước không
vơi cạn bao giờ" (Is 58,6-11).
Sáng kiến "24 giờ
cho Chúa" được cử hành vào thứ Sáu và thứ Bảy trước Chúa Nhật IV Mùa
Chay, sẽ được thực hiện tại tất cả các giáo phận. Rất nhiều người đang
tìm đến bí tích Hòa Giải, trong đó có nhiều người trẻ, nhờ trải nghiệm
này, sẽ tìm thấy con đường quay về với Thiên Chúa, để sống những giờ
phút cầu nguyện và để tìm lại ý nghĩa cho cuộc sống. Một lần nữa, chúng
ta cần xác tín vững vàng về tầm quan trọng đặc biệt của bí tích Hòa
Giải, một bí tích cho phép chúng ta như được chạm tay vào sự cao cả của
lòng thương xót. Bí tích này là nguồn suối an bình nội tâm thực sự cho
mọi hối nhân.
Tôi không ngừng nhấn
mạnh rằng các vị giải tội là dấu chỉ đích thực cho lòng thương xót của
Chúa Cha. Không ai trong phút chốc trở thành một vị giải tội như thế.
Điều đó sẽ xảy ra khi chúng ta để cho chính mình trở thành những hối
nhân đang nài xin ơn tha thứ. Đừng bao giờ quên rằng, trở nên người giải
tội có nghĩa là thông dự vào chính sứ mạng của Chúa Giêsu, và trở thành
dấu chỉ chắc chắn cho sự trao ban liên lỉ của tình yêu Thiên Chúa, tình
yêu luôn ban ơn tha thứ và cứu độ. Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận ơn
ban Thánh Thần để tha tội; chúng ta có trách nhiệm về ân huệ này. Không
ai trong chúng ta là chủ nhân của bí tích này, mà chỉ là người phục vụ
trung thành cho ơn tha thứ của Thiên Chúa qua bí tích ấy. Mỗi vị giải
tội phải tiếp đón các tín hữu như người cha trong dụ ngôn người con
hoang đàng: một người cha chạy đến gặp con, cho dù anh ta đã phung phá
hết cả gia tài. Các vị giải tội được mời gọi ôm vào lòng người con thống
hối đang quay về nhà, và bày tỏ niềm vui vì nay đã lại tìm thấy con.
Các ngài cũng đừng bao giờ từ chối đến với người con đang đứng bên
ngoài, người chưa thể chấp nhận niềm vui ấy, để giải thích cho anh ta
biết thái độ phán xử nghiêm khắc của anh là bất công và vô nghĩa trước
lòng thương xót vô hạn của người cha. Các vị giải tội đừng đòi hỏi điều
gì khác thường, nhưng như người cha trong dụ ngôn, hãy ngắt ngang những
gì người con hoang đàng định nói, chỉ cần nhận ra nơi tâm hồn của mỗi
hối nhân lời thỉnh cầu mong nhận được sự giúp đỡ và lòng thương xót. Tóm
lại, các vị giải tội được kêu gọi để trở thành dấu chỉ chính yếu của
lòng thương xót, trong mọi lúc, ở mọi nơi, trong mọi trường hợp và trước
hết mọi sự.
18. Trong Mùa Chay
của Năm Thánh này, tôi có dự định gửi đi các Thừa sai của Lòng thương
xót. Họ sẽ là dấu chỉ cho sự quan tâm từ mẫu của Giáo Hội đối với Dân
Chúa, để có thể đạt đến sự phong phú thâm sâu của mầu nhiệm căn bản liên
quan đến đức tin. Đó là các linh mục sẽ được ban năng quyền để giải các
tội dành riêng cho Tòa Thánh, nhằm biểu lộ rõ rệt tầm quan trọng của
thừa ủy vụ họ lãnh nhận. Trước hết, họ sẽ là dấu chỉ sống động của việc
Chúa Cha tiếp nhận bất cứ ai cầu xin ơn tha thứ của Ngài. Họ là những
thừa sai của lòng thương xót, vì nơi mọi người, họ sẽ là những tác nhân
của cuộc gặp gỡ mang tính nhân bản, của suối nguồn ơn giải thoát, với ý
thức trách nhiệm để vượt qua các trở ngại và để lãnh nhận sự sống mới
của bí tích Thánh Tẩy. Trong sứ vụ của mình, họ được dẫn dắt bởi lời
Thánh Tông Đồ: “Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong sự bất tín, để
thương xót mọi người” (Rm 11,32). Vì tất cả mọi người không trừ ai, đều
được mời gọi đến với lòng thương xót. Các thừa sai sống ơn gọi này nhờ
biết rằng họ có thể chăm chú dõi theo Chúa Giêsu, vị “Thượng Tế thương
xót và tín trung” (Dt 2,17).
Tôi xin các hiền
huynh Giám mục hãy mời gọi và tiếp nhận các Thừa sai, trước tiên hãy là
những người rao giảng đầy thuyết phục về lòng thương xót. Tại các giáo
phận, các Giám mục nên tổ chức những cuộc “sai đi đến với dân chúng” để
các Thừa sai trở thành những người loan báo niềm vui của ơn tha thứ. Các
Giám mục hãy cử hành bí tích Hòa Giải cho dân, để thời gian ân sủng
trong Năm Thánh giúp nhiều người đã bỏ đi xa, nay lại tìm thấy lối đường
quay về nhà Cha. Trong thời gian đặc biệt của Mùa Chay, các mục tử hãy
mời gọi các tín hữu đến với ngai tòa ân sủng, để được thương xót và lãnh
nhận ân sủng (Dt 4,16).
19. Ước chi lời tha
thứ sẽ chạm đến tất cả mọi người, và mong đừng có ai dửng dưng trước lời
mời gọi trải nghiệm lòng thương xót. Lời mời gọi thống hối đó, tôi xin
tha thiết gửi đến tất cả những ai vì lý do nào đó đang sống xa rời ân
sủng của Thiên Chúa. Tôi đặc biệt nghĩ đến những người nam, người nữ
đang tham gia vào một hình thức tổ chức tội phạm nào đó. Vì lợi ích của
anh chị em, tôi xin anh chị em hãy thay đổi lối sống. Tôi nài xin anh
chị em điều đó, nhân danh Con Thiên Chúa, Đấng kiên quyết loại trừ tội
lỗi, nhưng không bao giờ khước từ tội nhân. Đừng sa vào những cạm bẫy
đáng sợ khi nghĩ rằng, cuộc sống tùy thuộc vào tiền bạc, và so với tiền
bạc, các thứ khác đều không có giá trị và không quan trọng. Đó chỉ là
một ảo tưởng. Chúng ta không mang theo tiền bạc khi đi vào cõi chết.
Tiền bạc không đem lại hạnh phúc đích thực. Bạo lực tàn ác dùng để thu
tích tiền bạc, không đem lại quyền lực cũng không giúp chúng ta khỏi
chết. Sớm hay muộn, mọi người đều phải chịu Thiên Chúa phán xét, không
ai tránh được.
Tôi cũng hướng lời
mời gọi đó tới những người là thủ phạm hoặc đồng lõa trong nạn tham
nhũng. Vết thương mưng mủ này là một trọng tội đang kêu thấu tới trời,
vì đang hủy hoại nền tảng của cuộc sống cá nhân và xã hội. Nạn tham
nhũng không cho chúng ta tin tưởng nhìn về tương lai, vì sự tàn nhẫn và
tham lam sẽ làm tiêu tan dự định của những người yếu kém, và giẫm nát
những người nghèo khổ nhất. Đây chính là sự dữ lưu trú trong những cử
chỉ thường ngày, để rồi đưa đến những vụ bê bối công khai. Tham nhũng là
trở nên chai lì trong tội lỗi, muốn thay thế Thiên Chúa bằng tiền bạc
hư vô như một biểu tượng của quyền lực. Đây là việc làm của bóng tối,
được hỗ trợ bởi lòng nghi kỵ và mưu mô xảo trá. Thánh Grêgôriô Cả đã nói
thật chí lý rằng, Corruptio optimi pessima (sự hư hoại của điều tốt
nhất sẽ là tồi tệ nhất), câu nói cho thấy không ai có thể giữ mình
nguyên vẹn trước cơn cám dỗ ấy. Để loại trừ tham nhũng khỏi cuộc sống cá
nhân và xã hội, cần phải khôn ngoan, tỉnh thức, trung thực, lương
thiện, kèm theo sự can đảm để tố giác điều sai trái. Nếu không công khai
loại trừ, thì sớm hay muộn, tham những cũng biến chúng ta thành người
đồng lõa và sẽ hủy hoại cuộc sống.
Đây là thời gian
thuận lợi để thay đổi cuộc sống. Đây là thời điểm để đánh động trái tim.
Trước hành vi sai lỗi, cũng như trước các tội phạm nghiêm trọng, đây là
thời điểm để nghe tiếng kêu khóc của những con người vô tội đã bị cướp
mất tài sản, phẩm giá, tình cảm và cả cuộc sống. Ở lì trong nẻo đường
tội ác chỉ đưa đến cảm giác trống rỗng và buồn thảm. Sự sống đích thực
là một điều hoàn toàn khác. Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi trong việc
dang tay chờ đón. Ngài luôn sẵn sàng lắng nghe, và kể cả tôi, các Giám
mục và linh mục, cũng đang sẵn sàng. Chỉ cần tiếp nhận lời mời gọi thống
hối và quy phục đức công chính, trong lúc Giáo Hội đang trao tặng lòng
thương xót.
20. Trong khung cảnh
này, sẽ không vô ích khi nêu rõ mối tương quan giữa đức công bình và
lòng thương xót. Đây không phải là hai thực thể tương phản, nhưng là hai
chiều kích của một thực tại duy nhất, vẫn tăng triển dần cho tới khi
đạt đến mức độ viên mãn của Tình Yêu. Công bình là một khái niệm căn bản
của xã hội dân sự, thường gắn liền với hệ thống pháp lý, trong việc áp
dụng luật pháp. Công bình được hiểu là những gì thuộc về ai, thì phải
trao cho người ấy. Sách Thánh nói nhiều về đức công bình của Thiên Chúa,
cũng như về Thiên Chúa là một vị thẩm phán. Trong Kinh Thánh, công bình
chính trực thường được hiểu là chu toàn việc tuân giữ Lề luật, và là
cách sống của một người Israel tốt lành theo đúng các lệnh truyền của
Thiên Chúa. Nhưng quan điểm này nhiều khi đưa đến thái độ giữ luật cách
nhiệm nhặt, làm sai lệch ý nghĩa nguyên thủy và làm mờ nhạt bản chất sâu
xa của sự công chính. Để tránh quan điểm giữ luật cứng nhắc, cần nhớ
rằng, trong Kinh Thánh, đức công chính chủ yếu được hiểu là sự phó thác
đầy tin tưởng vào thánh ý Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu
cũng nhiều lần nói về tầm quan trọng của đức tin hơn là tuân giữ lề
luật. Chúng ta phải hiểu theo ý nghĩa đó về câu Ngài nói với những người
Pharisêu chỉ trích việc Ngài đồng bàn với Mátthêu và những người thu
thuế cùng những kẻ tội lỗi khác: “Hãy đi học cho biết ý nghĩa câu này:
Ta muốn lòng thương xót chứ không muốn hy lễ. Vì Ta đến không phải để
kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi“ (Mt 9,13). Đối
với quan điểm cho rằng đức công chính chỉ là sự tuân thủ lề luật, và
dựa vào đó để phê phán và phân chia hai nhóm người công chính và tội
nhân, Chúa Giêsu nói đến ân huệ cao cả của lòng thương xót, luôn tìm
kiếm tội nhân để trao ban cho họ sự tha thứ và ơn cứu rỗi. Như thế,
chúng ta hiểu, chỉ vì Chúa Giêsu cho rằng ân sủng của lòng thương xót là
một hành vi ban ơn giải thoát và là nguồn suối của ơn đổi mới, nên
Người bị những người Pharisiêu và các Luật sĩ phản đối. Những người này,
để trung thành với lề luật, đã đặt lên vai người khác những gánh nặng,
nhưng lại xóa bỏ lòng thương xót của Chúa Cha. Việc khuyên bảo tuân giữ
lề luật không được làm cản trở việc chăm sóc cho phẩm giá con người.
Câu Thánh Kinh được
Chúa Giêsu trích dẫn từ tiên tri Ôsê: “Ta muốn lòng thương xót chứ không
muốn hy lễ“ (Os 6,6) - mang một ý nghĩa thật rõ ràng. Chúa Giêsu khẳng
định rằng, từ đây, quy luật sống của các môn đệ Người là phải dành ưu
tiên cho lòng thương xót, như chính Người đã chứng tỏ, khi ngồi đồng bàn
với những người tội lỗi. Một lần nữa, lòng thương xót được mặc khải như
là nền tảng cho sứ mạng của Chúa Giêsu. Đây quả là một thách đố cho
những kẻ đang đối chất với Người, những kẻ bám chặt vào việc tuân giữ lề
luật theo hình thức. Trái lại, Chúa Giêsu vượt lên trên lề luật. Việc
Chúa tiếp nhận những kẻ mà lề luật xếp vào hàng tội nhân, giúp chúng ta
hiểu được sự cao cả của lòng thương xót.
Thánh Phaolô Tông đồ
cũng đã trải qua con đường tương tự. Trước khi gặp Đức Kitô trên đường
Đamas, ngài đã dành toàn bộ cuộc sống cho việc chu toàn trọn vẹn sự công
chính của lề luật (x. Pl 3,6). Cuộc trở lại với Đức Kitô đã hoàn toàn
thay đổi cách suy nghĩ của ngài, đến độ ngài viết trong thư gửi tín hữu
Galata: “Chúng ta tin vào Đức Kitô Giêsu, để được công chính nhờ tin vào
Đức Kitô, chứ không phải nhờ những công việc của Lề luật“ (Gl 2,16).
Thánh Phaolô đã thay đổi hoàn toàn cách hiểu về đức công chính. Vị trí
quan trọng nhất không còn được dành cho lề luật, nhưng là cho đức tin.
Ơn cứu độ không được trao ban nhờ việc tuân giữ lề luật, nhưng nhờ đức
tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã dùng sự chết và sự sống lại của Người
để ban ơn cứu độ, nhờ vào lòng thương xót mang lại ơn công chính hóa.
Giờ đây đức công chính của Thiên Chúa được hiểu là sự giải thoát cho
những người đang bị đè bẹp dưới ách nô lệ của tội lỗi và của tất cả
những hậu quả của tội. Đức công chính của Thiên Chúa là sự tha thứ của
Ngài (x. Tv 51,11-16).
21. Lòng thương xót
không hề đối nghịch với đức công bình, nhưng đúng hơn, lòng thương xót
cho thấy hành động của Thiên Chúa đối với tội nhân, kẻ được Ngài ban cho
dư tràn sức mạnh để thống hối, để trở về và để tin. Tiên tri Ôsê giúp
chúng ta nhận ra lòng thương xót trổi vượt trên sự công bình. Đây là vị
tiên tri sống vào giai đoạn nhiều biến động nhất của lịch sử dân Israel.
Vương quốc gần như đã sụp đổ; còn dân tộc bất trung với giao ước, đã xa
rời Thiên Chúa và đánh mất cả niềm tin của các tổ phụ. Theo lý luận con
người, dường như Thiên Chúa công bình muốn lìa bỏ đoàn dân bất trung:
những kẻ đã không tuân giữ giao ước và vì thế đáng bị trừng phạt, tức là
phải bị lưu đầy. Lời của vị tiên tri minh chứng cho điều đó: “Dân sẽ đi
về đất Ai cập, và Assur sẽ làm vua, vì chúng không muốn quay về với Ta“
(Os 11,5). Thế nhưng, sau khi nại đến sự công bình, vị tiên tri lại
dùng một cách nói hoàn toàn khác và đã mặc khải dung mạo đích thực của
Thiên Chúa: “Trái tim Ta thổn thức trong Ta, lòng trắc ẩn nung đốt Ta.
Ta sẽ không giận dữ trong cơn thịnh nộ, không quay lại để huỷ diệt
Ephraim, vì Ta là Thiên Chúa chứ không phải phàm nhân. là Đấng Thánh ở
giữa ngươi, và Ta sẽ không đến để gieo kinh hoàng khiếp hãi“ (Os
11,8-9). Thánh Augustinô, khi chú giải lời tiên tri này, đã nói: “Đối
với Thiên Chúa, nén giận thì dễ hơn là rút lại lòng thương xót“ (Enarr.
in Ps. 76, 11). Quả thật đúng như thế. Cơn giận của Thiên Chúa chỉ kéo
dài trong giây lát, nhưng lòng thương xót của Ngài thì bền vững đến muôn
đời.
Nếu Thiên Chúa chỉ
dừng lại nơi sự công bình, thì quả thực Ngài sẽ chẳng là Thiên Chúa nữa,
nhưng sẽ nên giống như những người cứ đòi phải tuân giữ lề luật. Chỉ có
công bình thôi thì không đủ. Kinh nghiệm cho thấy, nếu chỉ lưu tâm đến
công bình, sẽ có nguy cơ làm mất công bình. Vì thế, Thiên Chúa đặt lòng
thương xót và tha thứ lên trên công bình. Điều này không có nghĩa là xem
thường hay làm cho công bình trở nên thừa thãi. Hoàn toàn trái lại. Ai
phạm tội thì phải chịu phạt. Nhưng hình phạt không phải là nơi kết thúc,
mà là điểm khởi đầu của việc hoán cải, vì con người được cảm nếm sự
trìu mến của ơn tha thứ. Thiên Chúa không chối bỏ sự công bình. Ngài bao
phủ và thăng hoa sự công bình trong một kết cuộc cao đẹp hơn, nhờ đó
chúng ta cảm nghiệm được tình yêu, và tình yêu chính là nền tàng của sự
công bình đích thực. Chúng ta phải quan tâm đến lời thánh Phaolô để
không rơi vào những sai lầm mà Thánh Tông đồ đã khiển trách những người
Do thái đương thời: “không nhận biết sự công chính hóa từ Thiên Chúa, và
tìm cách tự công chính hóa chính mình, họ không theo đường lối công
chính hóa của Thiên Chúa; Đức Kitô là điểm kết thúc lề luật để ai tin
thì được công chính hóa“ (Rm 10,3-4). Đức công chính đó của Thiên Chúa
chính là lòng thương xót được ban cho mọi người, như là ân sủng được
thành toàn nhờ sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Như vậy,
Thập Giá của Đức Kitô chính là phán quyết của Thiên Chúa trên tất cả
chúng ta và trên thế giới, vì trao cho chúng ta chứng cứ chắc chắn của
tình yêu và sự sống mới.
22. Năm Thánh cũng
bao gồm Ân Xá, một yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt trong Năm Thánh
Lòng Thương Xót. Thiên Chúa xót thương chúng ta vô bờ bến. Nhờ sự chết
và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài,
tình yêu xóa bỏ tội lỗi của con người. Việc giao hòa với Thiên Chúa trở
nên khả thi nhờ mầu nhiệm Vượt Qua và qua trung gian của Giáo Hội.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng để thương xót, và không bao giờ mệt mỏi trong
việc thương xót với những cách thức mới mẻ và bất ngờ. Tất cả chúng ta
đều có kinh nghiệm về tội lỗi. Chúng ta biết mình được kêu gọi để trở
nên hoàn thiện (x. Mt 5,48), nhưng chúng ta vẫn cảm thấy gánh nặng của
tội lỗi. Chúng ta nhận ra sức mạnh của ân sủng đang biến đổi chúng ta,
cùng lúc chúng ta cũng cảm nghiệm sức mạnh của tội lỗi đang chi phối
chúng ta. Dù nhận được ơn tha thứ, chúng ta vẫn nghiệm thấy trong cuộc
sống những mâu thuẫn phát sinh từ tội lỗi. Nhờ bí tích Hòa Giải, Thiên
Chúa thứ tha tội lỗi, những tội ấy hoàn toàn bị xóa bỏ; tuy nhiên, vẫn
còn đó những dấu vết xấu xa do tội lỗi để lại trong lối hành xử và cách
suy nghĩ của chúng ta. Nhưng lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn mạnh
hơn. Lòng thương xót trở thành những ân xá của Chúa Cha, qua trung gian
Hiền Thê của Đức Kitô, được ban cho tội nhân vừa lãnh ơn giao hòa, sẽ
giải gỡ người ấy khỏi tất cả những hậu quả của tội lỗi, để có thể hành
động với đức ái và lớn lên trong tình yêu, hơn là lại rơi vào tội lỗi.
Giáo Hội sống trong
tình hiệp thông với các thánh. Trong bí tích Thánh Thể, tình hiệp thông
ấy, do Thiên Chúa ân ban, trở nên mối dây thiêng liêng nối kết các tín
hữu với các thánh và các chân phước, một cộng đoàn đông đảo không sao
đếm được (x. Kh 7,4). Sự thánh thiện của các ngài sẽ hỗ trợ cho sự mỏng
dòn của chúng ta, và như thế, với lời cầu nguyện và đời sống của mình,
Mẹ Giáo Hội có thể nâng đỡ sự yếu đuối của người này bằng sự thánh thiện
của người khác. Lãnh nhận ân xá của Năm Thánh chính là vui hưởng lòng
thương xót của Chúa Cha, với quyết tâm để cho ơn tha thứ của Ngài tác
động trên toàn bộ đời sống người tín hữu. Ân xá cũng là cảm nghiệm sự
thánh thiện của Giáo Hội đang thông ban tất cả hoa trái nơi công trình
cứu độ của Chúa Kitô, để ơn tha thứ và tình yêu Thiên Chúa có được những
kết quả tuyệt vời nhất. Chúng ta hãy sống Năm Toàn Xá này cách sốt
sắng, hãy khẩn cầu Thiên Chúa tha thứ tội lỗi và tuôn đổ chan hòa ân xá
đầy xót thương của Ngài trên chúng ta.
23. Lòng thương xót
cũng vượt ra ngoài ranh giới của Giáo Hội để nối kết chúng ta với Do
thái giáo và Hồi giáo, những tôn giáo vẫn tin nhận lòng thương xót là
một trong những thuộc tính cao cả nhất của Thiên Chúa. Israel là dân tộc
đầu tiên đã tiếp nhận mặc khải này, được lưu giữ trong lịch sử như là
cửa vào một kho báu vô tận được chuyển trao cho toàn thể nhân loại. Như
chúng ta đã thấy, những trang sách Cựu Ước nói nhiều về lòng thương xót,
tường thuật những việc Thiên Chúa đã thực hiện cho dân Ngài trong những
thời điểm khó khăn nhất của lịch sử. Nơi Hồi giáo, Đấng Tạo Hóa cũng
được gọi là Đấng Xót Thương Nhân Hậu. Lời kêu cầu này thường xuyên xuất
hiện trên môi miệng các tín hữu Hồi Giáo, những người vẫn cảm nhận được
lòng thương xót luôn đồng hành và nâng đỡ những yếu đuối trong cuộc sống
hằng ngày. Họ cũng tin rằng, không ai có thể đặt giới hạn cho lòng
thương xót của Thiên Chúa, vì những cánh cửa của lòng thương xót ấy luôn
được rộng mở.
Ước chi Năm Thánh
Lòng Thương Xót này thúc đẩy chúng ta gặp gỡ hai tôn giáo nêu trên, cũng
như các truyền thống tôn giáo cao quý khác, giúp chúng ta cởi mở hơn
trong việc đối thoại, để có thể biết nhau và hiểu nhau nhiều hơn. Mong
sao Năm Thánh sẽ giải tỏa thái độ khép kín và thiếu trân trọng, cũng như
loại bỏ mọi hình thức bạo lực và kỳ thị.
24. Giờ đây chúng ta
hướng tâm trí về Người Mẹ của Lòng Thương Xót. Xin ánh mắt dịu hiền của
Mẹ luôn dõi theo chúng ta trong suốt Năm Thánh này, để mỗi người chúng
ta có thể tái khám phá niềm vui đến từ lòng khoan dung của Thiên Chúa.
Không ai thấu hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa làm người cho bằng Đức Maria.
Toàn bộ cuộc sống của Mẹ được định hình bởi sự hiện diện của Lòng Thương
Xót trở nên xác phàm. Thân Mẫu của Đấng Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh đã
bước vào thánh điện của Lòng Thương Xót, vì đã thông dự mật thiết vào
mầu nhiệm Tình Yêu Thiên Chúa.
Được tuyển chọn làm
Mẹ của Con Thiên Chúa, Đức Maria ngay từ đầu đã được chuẩn bị bởi Tình
Yêu của Chúa Cha, để trở nên Hòm Bia Giao Ước giữa Thiên Chúa và con
người. Mẹ bảo toàn lòng thương xót của Thiên Chúa nơi trái tim Mẹ, trong
mối tương quan mật thiết Thánh Tử Giêsu. Bài ca Ngợi khen của Mẹ trước
ngưỡng cửa nhà bà Elisabeth hướng về Lòng Thương Xót trải dài “từ đời nọ
tới đời kia“ (Lc 1,50). Chúng ta cũng đã có mặt trong những lời mang
tính ngôn sứ này của Đức Trinh Nữ Maria. Điều này sẽ trở thành niềm an
ủi và sức mạnh phù trợ, khi chúng ta bước qua Cửa Thánh để lãnh nhận ơn
phúc từ lòng thương xót của Thiên Chúa.
Dưới chân Thập giá,
cùng với thánh Gioan, người môn đệ của tình yêu, Đức Maria là nhân chứng
của những lời tha thứ thốt ra từ miệng Chúa Giêsu. Việc Chúa tha thứ
cho những kẻ đã đóng đinh Người, cho chúng ta thấy lòng thương xót của
Thiên Chúa đi xa tới mức nào. Đức Maria làm chứng rằng, lòng thương xót
của Con Thiên Chúa thì vô bến bờ, và được trao ban cho tất cả mọi người
không trừ ai. Chúng ta cùng dâng lên Mẹ lời kinh Salve Regina, một lời
kinh cổ xưa nhưng vẫn luôn mới: xin Mẹ không ngừng ghé mắt thương xem
chúng ta, và cho chúng ta được ngắm nhìn Dung Mạo của Lòng Thương Xót,
là Chúa Giêsu, Con của Mẹ.
Chúng ta cũng xin
được dâng lời khẩn cầu lên các Thánh và các Chân Phước, những người đã
sống như những sứ giả của lòng thương xót. Chúng ta đặc biệt nghĩ tới
người tông đồ vĩ đại của lòng thương xót – thánh nữ Faustina Kowalska.
Thánh nữ được mời gọi bước vào tận nơi sâu thẳm của Lòng Chúa Xót
Thương, xin Thánh nữ chuyển cầu và giúp chúng ta luôn sống và bước đi
trong tình thương tha thứ của Thiên Chúa, cũng như trong niềm tín thác
kiên vững vào tình yêu của Ngài.
25. Như thế, đây là
một Năm Thánh ngoại thường, để chúng ta thực thi trong cuộc sống hằng
ngày lòng thương xót mà Chúa Cha không ngừng ban cho chúng ta. Trong Năm
Thánh này, hãy để Thiên Chúa tạo bất ngờ cho chúng ta. Ngài luôn để
cánh cửa trái tim Ngài rộng mở, và không ngừng lập đi lập lại rằng, Ngài
yêu thương chúng ta và muốn thông truyền sự sống của Ngài cho chúng ta.
Giáo Hội phải cấp thiết loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa. Đời
sống Giáo Hội sẽ trở nên xác thực và đáng tin khi công bố lòng thương
xót với trọn niềm xác tín. Giáo Hội biết rằng, trong một thời đại vừa
chất chứa những niềm hy vọng to lớn vừa có đầy những mâu thuẫn nghiêm
trọng, trách vụ hàng đầu của Giáo Hội là dẫn đưa tất cả mọi người đi vào
mầu nhiệm cao cả của Lòng Thiên Chúa Xót Thương, bằng cách chiêm ngưỡng
dung mạo của Đức Kitô. Giáo Hội được mời gọi trước tiên trở nên chứng
nhân đáng tin cậy của lòng thương xót, bằng cách tuyên xưng và sống lòng
thương xót như là chủ điểm trong mặc khải của Chúa Giêsu Kitô. Từ Trái
tim của Ba Ngội, từ mầu nhiệm cao cả và thẳm sâu nhất của Thiên Chúa,
dòng chảy dạt dào của lòng thương xót trào dâng và liên lỉ tuôn tràn.
Suối nguồn này không bao giờ khô cạn, bất kể có bao nhiêu người đến kín
múc. Bất cứ ai cần, đều có thể tìm đến, vì lòng thương xót của Thiên
Chúa thì vô cùng vô tận. Sự thẳm sâu của mầu nhiệm thì không thể dò
thấu, trong khi sự phong phú của lòng thương xót thì không sao múc cạn.
Trong Năm Toàn Xá
này, Giáo Hội mong làm vọng lại Lời Thiên Chúa, đang vang lên thật rõ
ràng và đầy thuyết phục trong lời và cử chỉ tha thứ, củng cố, trợ giúp
và yêu thương. Giáo Hội sẽ không bao giờ ngưng trao ban lòng thương xót,
sẽ luôn mãi kiên trì tha thứ và ủi an khích lệ. Giáo Hội muốn trở thành
tiếng nói của bất cứ người nam hay người nữ nào, và không ngừng kêu xin
với trọn niềm tín thác: “Lạy Chúa, xin nhớ lại tình lân ái và lòng
thương xót của Chúa, như vẫn có từ ngàn xưa“ (Tv 25,6).
Ban hành tại Rôma, cạnh Đền Thờ Thánh Phêrô
Ngày 11 tháng 04 - Vọng Chúa Nhật II Phục Sinh - Chúa Nhật Lòng Thương Xót - năm 2015, năm thứ ba Triều Đại Giáo Hoàng của tôi. Giáo Hoàng PHANXICÔ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét