Ông bà anh chị
em thân mến. Có một người đàn bà tên là Helen trên đường ra phi trường. Sau một
tuần thật khó khăn, bà trông đợi một thời gian ở xa yên tĩnh một mình. Bà đến
phi trường 1 tiếng rưỡi trước chuyến bay và khi đến cửa chờ đợi vào phi cơ, bà ngồi
trên một cái ghế, thong thả mở một cuốn sách mang theo và bắt đầu đọc.
Bà cảm thấy thoải mái vì không bị ai làm phiền. Nhưng sau mấy phút, bà bỗng nghe tiếng của một bà cụ già ngồi bên cạnh nói: “Tôi chắc chắn nó sẽ còn lạnh khi đến Chicago.” Mắt không rời cuốn sách và cũng không ngẩng đầu lên, bà Helen trả lời: “Có thể như vậy.” Bà cụ già bên cạnh tiếp tục nói chuyện và bà Helen chỉ trả lời bằng những tiếng “ừ, ừ” hay “yes, yes” ngắn ngủi, cộc lốc vô cảm.
Bà cảm thấy thoải mái vì không bị ai làm phiền. Nhưng sau mấy phút, bà bỗng nghe tiếng của một bà cụ già ngồi bên cạnh nói: “Tôi chắc chắn nó sẽ còn lạnh khi đến Chicago.” Mắt không rời cuốn sách và cũng không ngẩng đầu lên, bà Helen trả lời: “Có thể như vậy.” Bà cụ già bên cạnh tiếp tục nói chuyện và bà Helen chỉ trả lời bằng những tiếng “ừ, ừ” hay “yes, yes” ngắn ngủi, cộc lốc vô cảm.
Bà Helen bỗng
giật mình nhận ra bà cụ già bên cạnh đang nói về thi thể của người chồng đã qua
đời sau 54 năm chung sống vợ chồng, và đang được chuyển về thành phố Chicago. Bà Helen cũng nhận ra bà cụ già là một người
đang mang một tâm sự đau khổ vì mất mát người chồng, đang tìm kiếm một người để
tâm sự, và đã trút tâm sự đau khổ của bà với một người hoàn toàn xa lạ. Bà cụ già không tìm lời khuyên, cũng không xin
giúp đỡ về tiền bạc, bà chỉ đơn giản tìm kiếm một người biết lắng nghe. Bà Helen bỏ cuốn sách xuống, nắm lấy tay bà
cụ già và chăm chú lắng nghe. Và trong
khi lắng nghe, bà Helen tự nhiên quên hết tất cả những vấn đề rắc rối của chính
mình. Bà thật sự đã tìm được nguồn sức
mạnh khi chia sẻ với người đang đau khổ.
Lúc đó tiếng của
người nữ khiểm soát vé gọi mọi người thứ tự vào phi cơ. Hai người đàn bà đã nắm tay nhau cùng bước
vào phi cơ và vào chỗ ngồi cách nhau mấy hàng ghế. Khi bà Helen đang nâng hành lý cho vào cabin,
chỗ để ở trên, bà nghe bà cụ già nói với người ngồi bên cạnh: “Tôi chắc chắn nó
sẽ còn lạnh khi đến Chicago.” Bà Helen
đã thốt lên một lời thầm cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho người ngồi
bên bà cụ già này có một ơn biết lắng nghe với một con tim chân thành.”
Ông bà anh chị
em thân mến. Câu chuyên trên đây tương tự như câu chuyện trong bài Tin mừng mà
chúng ta vừa nghe về hai người: một là người nghèo khổ Lazarô, đang trong tình
trạng khốn khổ cần sự giúp đỡ, và người khác là người phú hộ giàu có, trong
tình trạng có thể thương giúp Lazarô được.
Sự cần thiết của người nghèo khổ Lazarô thì nhỏ và đơn giản mà người phú
hộ giàu có thể giúp được một cách dễ dàng. Nhưng thật không may mắn, người phú
hộ giàu có đã không giúp như bà Helen đã làm cho bà cụ già trong câu chuyện, và
Tin mừng cho chúng ta biết sau khi cả hai cùng chết, người nghèo khổ Lazarô
được vào chỗ sung sướng, còn ông phú hộ giàu có lãnh nhận cực hình trong chốn
trầm luân.
Tội mà người phú
hộ giàu có phải lãnh nhận hình phạt sau khi chết không phải là tội đuổi Lazarô
ra khỏi nhà, cũng không phải là tội đánh đá Lazarô mỗi khi đi ngang qua, hay là
tội chửi mắng khi thấy Lazarô. Tội mà
người phú hộ giàu có phải lãnh nhận những hình phạt, đơn giản là tội làm ngơ,
là tội vô cảm. Đây không phải là tội
phạm những điều cấm không được làm, hay là tội không làm tròn, cũng không phải
là thiếu sót những điều phải làm như trong lời nguyện tôi thú nhận ở đầu Thánh
lễ vừa rồi. Tội mà người phú hộ giàu có
phải chịu những hình phạt sau khi chết, ở đây là “tội hờ hững”, “tội vô cảm”,
hay “tội không nâng, đụng vào một ngón
tay” để giúp một người nghèo khổ trước mắt mà ông có thể thương giúp một cách
dễ dàng, không mất mát gì nhiều, hay tổn hại gì nhiều.
Do đó, ông bà anh chị em thân mến, qua bài Tin mừng hôm nay,
Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu và hiểu rõ: tội của người phú hộ giàu có là tội
làm ngơ, hay vô cảm trước một hoàn cảnh đáng thương, đáng được giúp đỡ trước
mắt. Có lẽ tâm hồn người phú hộ đã đóng kín, đã khép lại, và chỉ chú ý tới cuộc
sống ích kỷ và sự ăn uống nhậu nhẹt linh đình của mình, bởi thế ông có mắt mà
như mù, có tai mà như điếc, có trái tim mà không cảm động, có lương tâm mà
không xúc cảm, trước một hoàn cảnh đáng thương, đáng được giúp đỡ. Có lẽ ông đã
tự cao và kiêu căng nghĩ rằng: tiền của và những gì ông
đang có trong tay là của ông, tự ông làm ra, ông muốn xử dụng hay hưởng thụ thế
nào, cho ai hay không cho ai là tùy ý của ông. Ông nghĩ rằng ông hoàn toàn vô
tội vì không làm thiệt hại ai. Đối với
những hoàn cảnh đáng giúp, hay người nghèo khổ đến với ông, ông nghĩ ông có
quyền không cho, không giúp đỡ, và làm như thế ông không có lỗi gì với họ cả,
ông có làm gì khiến họ bị thiệt hại, đau khổ đâu!
Thật ra, như tất cả chúng ta hiểu biết, tiền bạc của cải của ông có, hay là tiền bạc của cải
của chính chúng ta đang có, không phải là của chúng ta, mà là của Chúa ban, cho
nên ông không có toàn quyền sử dụng theo ý mình. Ông và tất cả chúng ta chỉ là những người quản
lý như trong bài Tin mừng tuần trước Chúa Giêsu nhắc nhở. Chúng ta phải xử dụng
theo như ý định của chủ là Thiên Chúa, để sinh lời
cho chủ, trong những việc bác ái và làm sáng danh Chúa.
Một điều chúng ta phải chú ý là ông phú hộ chịu cực
hình trong hỏa ngục không hề kêu oan, cho nên ông đã kêu cầu ông Abraham cho
Lazarô về báo tin, làm chứng cho người thân của ông còn sống trên dương thế để
không rơi vào tình trạng của ông.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta, là những người còn sống nơi trần
gian, cầu xin Chúa giúp chúng ta sống như là một quản lý tốt lành, dùng những
ơn lành Chúa ban môt cách khôn ngoan theo thánh ý Chúa, để làm sáng danh Chúa,
trong việc xây dựng giáo hội, giáo xứ và bác ái, chia sẻ, giúp đỡ những ai
trong những hoàn cảnh khó khăn và thiếu may mắn. Xin Chúa giúp và hướng dẫn
chúng ta tìm kiếm đức công chính và hiền lành như lời thánh Phaolô khuyên nhủ
trong bài đọc 2 hôm nay, để chúng ta được hưởng hạnh phúc thật trên Thiên Đàng
đời sau.
Lm. Chánh xứ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét