Người ta
tặng cho tôi 3 con khỉ nhỏ bằng sứ: con bịt mắt, con bịt tai và con bịt
miệng. Thấy ngồ ngộ, tôi để chúng nơi phòng khách, ai vào thăm cũng sôi
nổi bình luận. Mắt để thấy, tai để nghe, miệng lưỡi để ăn nói. Đó là
những khả năng tự nhiên, chẳng ai lại muốn khiếm khuyết. Ai cũng muốn
mình được thông minh, lanh lợi, tại sao phải bịt cả mắt lẫn tai và miệng
lại giống như người mù, câm, điếc?
Tết Con Khỉ sắp đến nên xin được tản mạn về khỉ “ba không” ấy.
1. Nguồn gốc
Nguồn gốc
về ý niệm ba con khỉ có thể bắt nguồn từ Ấn Độ cả ngàn năm trước.Thần
Vajrakilaya là vị thần có 6 tay, mỗi đôi tay dùng để bịt hai mắt, hai
tai và miệng nhằm để răn dạy con người mà dân chúng Ấn Độ đa số là Phật
tử, với ý khuyên là không nhìn bậy, không nghe bậy, không nói bậy. Tư
tưởng 3 không theo các nhà tu Phật giáo đi qua nước Tàu không rõ vào
thời kỳ nào. Sau đó vào khoảng thế kỷ VIII đời nhà Đường, một thiền sư
Phật giáo trong chuyến Phật sự ở Trung hoa, đã mang theo về Nhật tư
tưởng này.
Tại Nhật,
vùng Nikko cách Tokyo chừng 140 cây số về hướng Bắc, trong đền Toshogu
hiện nay còn lưu giữ một bức điêu khắc cổ (tổng cộng 8 bức khác nhau) có
tượng 3 con khỉ tên Mizaru, Kikazaru và Iwazaru (bịt tai, bịt mắt, bịt
miệng) bằng gỗ của nghệ nhân Hidari Jingoro (1594-1634), rất nổi tiếng
từ thế kỷ XVII. Tại sao lại là 3 con khỉ? Trong tiếng Nhật chữ “zaru”
nghĩa là không, “saru” nghĩa là con khỉ. Một con lấy tay che mắt tên là
mizaru, tiếng Nhật là mizaru có ý nghĩa “tôi không thấy điều xấu”. Con
giữa lấy tay bịt tai tên là kikazaru có ý nghĩa “tôi không nghe điều
xấu”. Còn con thứ 3 lấy tay bịt miệng tên là iwazaru với ý nghĩa là “tôi
không nói điều xấu”. Không hiểu rõ nguyên nhân là người Nhật họ muốn
chơi chữ hay là phát âm không rõ ràng, mà ngày nay các sách đều viết là
“mi-zaru, kika-zaru, iwa-zaru”. Nhưng có một điều chắc chắn là người
Nhật tu Thiền dùng 3 con khỉ để nói lên sự quan trọng và sự kiểm soát ba
giác quan từ cơ thể tiếp xúc với thế giới bên ngoài là mắt, tai, miệng.
Nhiều vùng ở Nhật, người ta cũng tin rằng con khỉ là trung gian giữa
thần thánh và con người. Không nhìn, không nghe, không thấy là khuôn
vàng thước ngọc của nhiều thế hệ người Nhật, ngày nay tư tưởng này được
chấp nhận như là một nguyên tắc chỉ đạo.
Nguồn gốc
ba ý niệm không nhìn, không nghe, không nói cũng có thể bắt nguồn từ tư
tưởng của Khổng Phu Tử cách đây mấy ngàn năm, vì trong Luận Ngữ có câu:
“phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn”. Nghe dẫn giải từ
người biết chiết tự chữ Hán thì chữ “thông” có bộ “nhĩ” là tai, chữ
“minh” có bộ “nhật” và bộ “nguyệt” tượng trưng cho hai con mắt. Như vậy,
người có tai thính mắt sáng là người nghe thấy được nhiều điều hay đẹp
mà nảy ra trí tuệ, là người thông minh.Trong xã hội Việt Nam, đâu dễ
dàng gì là người có được tai mắt trong vùng, có tai mắt trong vùng đồng
nghĩa với có thân thế địa vị, quyền cao chức trọng, và dĩ nhiên có được
tai mắt thì miệng được …ăn thoải mái!
Có thể
hình điêu khắc ba con khỉ này chịu ảnh hưởng Thiền của Phật giáo. Đọc
kinh Phật thỉnh thoảng, người ta gặp câu “Tâm viên ý mã”. Nhà Phật cho
rằng “Tâm” và “Ý” của con người luôn luôn biến chuyển, nhảy nhót, chọt
chẹt, phá phách không ngừng như con khỉ và con ngựa không bao giờ chịu
đứng yên một chỗ, nếu không kềm chế chúng nó lại, nó suy nghĩ lung tung
hết chuyện này đến chuyện kia thì sẽ sinh ra phiền não. Tìm hiểu xa hơn
thêm một chút thì nhà Phật cho rằng lục căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân và ý tiếp xúc với lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp,
rồi sinh ra lục thức. Nếu những thức này không bị ô nhiễm thì hành giả
được tâm thanh tịnh mà đạt đến lục thông. Còn nếu mắt ham nhìn cái đẹp,
tai muốn nghe lời ngon ngọt, mũi thích ngửi mùi thơm tho, lưỡi ưa nếm vị
thức ăn ngon, thân tiếp xúc với đồ dơ, và ý nghĩ điều bậy để tâm bị mê
loạn thì lục thức sẽ biến thành lục tặc là 6 tên giặc phá hại sự thanh
tịnh cho việc tu hành.Phật giáo không chỉ đề cập đến mắt, tai, miệng
(lưỡi) mà còn thêm mũi, thân và ý1.
2. Con Khỉ Bịt Mắt
Đôi mắt
là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Nếu không thấy ánh
sáng, hình ảnh, màu sắc, vẻ đẹp thì ấy là đôi mắt mù.Tại sao lại bịt
mắt? Để đừng nhìn những chỗ không nên nhìn, đừng nhìn đời bằng nửa con
mắt, đừng thiển cận thành kiến dễ dẫn đến cái nhìn không đúng sự thật,
vội vàng đánh giá sai vấn đề. Thói thường ở đời là “yêu nên tốt, ghét
nên xấu”, thành ra khi người ta có thành kiến thì nhãn quan cá nhân cũng
lệch chuẩn. Con khỉ che mắt có ý khuyên người ta chớ nên vội nhìn vào
hiện tượng mà đánh giá bản chất sự việc, nên suy xét mọi việc bằng con
mắt nhân văn, bằng sự suy ngẫm thấu đáo2.
Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương.
Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời; Để nhìn đời và để làm duyên.
Mẹ cho em đôi mắt màu đen; Để thương để nhớ, để ghen để hờn.
Đôi mắt em là cửa ngỏ tâm hồn; Là bài thơ hay nhất,
Là lời ca không dứt; Là tuyệt tác của thiên nhiên.
Mẹ cho em đôi mắt màu đen; Để thương để nhớ, để ghen để hờn.
Đôi mắt em là cửa ngỏ tâm hồn; Là bài thơ hay nhất,
Là lời ca không dứt; Là tuyệt tác của thiên nhiên.
Thi sĩ Lưu Trọng Lư đã viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:
Mắt em là một dòng sông,
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.
Mắt là
cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có
người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông.
Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt
đẹp.Thế nhưng, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những
trang đầu của sách Sách Sáng thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người
đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu ! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các
ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa,
biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà
nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn.
Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần
truồng” (St 3, 4–7).
Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:
– Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.
– E-và nhìn trái táo và thấy sướng mắt.
– Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa
là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt
đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không
thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những
dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm
đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần
thế.Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: “mắt cả hai người đã mở ra”.
Không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. “Mắt
hai người đã mở ra”. Câu Thánh kinh thật ngắn ngũi diễn tả cách tinh tế
sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam – Evà đã mở mắt, nhưng
họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá
che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù
và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế3.
Chúa Kitô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa
ngã của Nguyên Tổ. Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ
thưở mới sinh (Mc 10, 46-52 ; Mt 20,29-34 ; Lc 18,35-43) với sự mù loà
của Nguyên tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa
đến trong thế gian. “Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thưở địa
đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian. Ngài ban cho nhân loại
đôi mắt mới: Mắt Đức Tin. Ðôi mắt đức tin giúp con người nhìn thấy Thiên
Chúa và yêu mọi người, mọi sự trong Chúa và yêu như Chúa đã yêu. Nhiều
Thánh vịnh giúp ta tập nhìn cuộc đời và con người bằng đôi mắt tin yêu,
như Thánh vịnh 104, các Thánh vịnh Job 38-39. Chúa Giêsu cũng chữa nhiều
người mù loà tâm hồn. Ngài mở mắt cho Giakêu thấy được sự nguy hiểm của
tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9, 1-10). Ngài mở mắt cho người đàn bà
ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7, 36-50). Ngài mở mắt
cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23, 32-43)…
Chúa Giêsu dạy: “ Nếu mắt của con làm cớ cho con sa ngã thì hãy móc mà ném nó đi” (Mt 5,29);
3. Con Khỉ Bịt Mồm
Miệng để
nói để cười để khóc. Nếu không nói được là câm, nói ú ớ là ngọng, nói
lắp bắp là cà lăm. Có ai muốn vậy đâu! Tại sao phải bịt miệng? Người xưa
nói: “Khẩu thiệt giả họa chi môn, diệt thân chi phủ dã”: miệng lưỡi là
cửa vào tai họa, là búa rìu diệt thân. Người đời thường nhắc nhở nhau:
“Người ít nói không phải là người nói ít mà đừng nên nói những gì vô
ích”.
Chu Văn
An (1292-1370) là một bậc hiền Nho, một vị đại quan đáng kính và là một
người thầy mẫu mực được suy tôn là “Vạn thế sư biểu” (người thầy của
muôn đời). Ông được thờ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội, sinh thời ông
từng dâng “thất trảm sớ” chém 7 tên nịnh thần, nhưng vua không nghe. Ông
đã gửi trả mũ áo quan cho vua rồi về ở ẩn tại Côn Sơn, Kiếp Bạc. Ông
được các học giả thời phong kiến xưa ví như sao đẩu, sao khuê… Cao Bá
Quát đã từng viết về ông: “Thất trảm yêu ma phải rợn lòng.Trời đất soi
chung vầng hào khí.Nước non còn mãi nếp cao phong”.
Phải
chăng, hình tượng con khỉ bịt mồm có ý nhắc nhở người nói phải có người
nghe, người không biết nghe thì ta có nói cũng phí lời?
Người xưa
có câu: Học nói chỉ mất 3 năm nhưng học im lặng mất 60 năm chưa chắc đã
học được. Lại có câu “Câm hay ngóng, ngọng hay nói” nghĩa là, thường
những người biết ít lại hay nói nhiều hoặc đã không biết lại tỏ ra biết
nhiều. Nhà bác học Albert Ein-Stein có nói, cái ta biết chỉ bằng một
giọt nước, còn cái ta không biết bằng cả một đại dương, ấy thế mà có
nhiều anh chàng, cô nàng cái gì cũng tỏ ra “biết tuốt”. Và nữa, khi
không vừa lòng ai (do định kiến riêng) người ta thường nói hơn, nói kém
mặc lòng. Ca dao có câu: “Yêu ai thì nói quá ưa. Ghét ai nói thiếu nói
thừa như không”. Vẫn biết họa từ mồm mà ra, bệnh từ mồm mà vào (họa tùng
khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập) nhưng mấy ai giữ được cho toàn vẹn?4
Cổ nhân
có câu: “Nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy” (một lời nói ra, bốn ngựa
đuổi theo không kịp). Lời nói của con người có thể có hậu quả rất lớn và
rất phức tạp; có thể ích lợi hay tai hại, xây dựng hay phá đổ. Chính vì
thế, bác ái rất cần trong lời nói.Muốn bác ái trong lời nói, trước hết
phải tế nhị, tránh những lời nói làm thiệt hại hoặc gây buồn phiền. Có
thể đó là những lời nói hữu ý hay vô tình.
Nói hành,
nói xấu, làm thiệt hại uy tín và danh dự người khác, là điều lỗi đức ái
nặng. Ganh tị là nguyên nhân chính gây ra nói hành nói xấu. Người ta
lỗi đức ái nặng nề nhất, khi lời nói sau lưng hoàn toàn đi ngược với lời
nói trước mặt. Khuynh hướng này biểu lộ sự hèn nhát, không xứng với
người kitô hữu là con cái sự thật.
Người ta
thường lỗi đức ái trong lời nói nhiều hơn cả, ngược lại cũng có thể xây
dựng tình bác ái bằng lời nói nhiều hơn cả. Điều này đòi hỏi một ý thức
mãnh liệt và thường xuyên. Nhờ ý thức mà chúng ta khám phá cơ hội thi
hành bác ái bằng lời nói.
Bác ái
trong lời nói không là ăn nói đưa đẩy hay tìm cách lấy lòng người khác
bằng lời xu nịnh, cũng không là lời nói suông trên môi miệng, miễn trừ
hành động thực tế. Nhưng là dùng lời nói như một yếu tố quan trọng để
biểu lộ và xây dựng điều cốt yếu mà Đức Kitô dạy là tình yêu không giả
dối.
Việc xây
dựng tình bác ái bằng lời nói rất đa dạng, tùy người và tùy môi trường,
nhưng cũng có những nét lớn căn bản: lời khích lệ, lời an ủi, lời thông
cảm hay chia sẻ, lời nói làm vui lòng người khác, lời nói xây dựng.
Thánh Gicôbê khuyên “Thưa anh em, anh em đừng nói xấu nhau” (Gcb 4,11).
4. Con Khỉ Bịt Tai
Tai là
cửa ngõ dẫn âm thanh vào tâm trí. Tai không nghe được tiếng nói âm thanh
là tai điếc. Sao lại bịt tai? Chắc hẳn là người ta tránh nghe những
chuyện thị phi.
Khi nghe
điều gì, thiết nghĩ người nghe nên sàng lọc, phân tích kỹ càng. Lại phải
nghe hai tai, nghe ý kiến nhiều chiều. Không phải lời khuyên bảo nào
cũng xuất phát từ sự thành tâm. Thông thường ai cũng thích nghe những
lời ngọt ngào, ngợi khen, nịnh nọt chứ mấy ai thích nghe những ý kiến
phê bình? Kể cả những lời phê bình ấy là rất thành thực. Nhiều khi người
ta đâu biết những ai có lời chê đúng thì người đó chính là thầy của ta.
Người hiểu biết là người biết nghe những lời nói thẳng thắn bộc trực.
“Trung ngôn nghịch nhĩ” là vậy! Hình tượng con khỉ bịt tai có ý khuyên
người ta hãy cảnh giác với những lời đường mật.
Để sống
tinh thần Tin Mừng, điều cần thiết nhất là phải biết lắng nghe. Người
nghe tai bên này lọt qua tai bên kia nên không còn gì để suy nghĩ, vì
thế nên rất nông cạn. Họ được Chúa Giêsu ví như hạt giống “rơi xuống vệ
đường, chim chóc đến ăn mất” (Mt 13,4). Người nghe nhưng vội nói nên
thiếu gạn lọc khơi trong. Họ giống như “hạt rơi trên sỏi đá, chỗ đất
không nhiều, nó mọc ngay, vì đất không sâu, nhưng khi nắng lên nó liền
bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô”(Mt 13,5). Người biết lắng nghe
và biết gìn giữ trong trí khôn để suy nghĩ, biết lưu lại trong tâm hồn
để suy niệm nên nội tâm phong phú, họ như “hạt gieo vào đất tốt, nên
sinh hoa kết quả: hạt được gắp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba
chục” (Mt 13,8).
Cha Mark
Link, S.J nói rằng: “Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng 3 lỗ tai: lỗ
tai của tâm trí, lỗ tai của trái tim và lỗ tai của linh hồn”. Lắng nghe
bằng lỗ tai tâm trí. Đó là cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, và hơn nữa, làm
cho lời ấy sống động y như chúng ta đang nghe chính Chúa nói. Thánh
Ignatiô Loyola thường nghe Lời Chúa theo kiểu này, bằng cách nhắm mắt
lại và tưởng tượng mình đang có mặt trong hội đường Do Thái để nghe Chúa
Giêsu nói. Ngài tưởng tượng ra niềm xúc động khiến giọng nói Chúa Giêsu
nghẹn ngào khi đọc đến câu : “Thần khí Chúa ngự trên tôi”. Ngài còn
tưởng tượng ra nỗi phấn khích như điện giật lan chuyền nơi cộng đoàn
tham dự khi Chúa Giêsu tuyên bố : “Hôm nay, lời Kinh Thánh trên đã ứng
nghiệm khi anh chị em nghe đọc nó”. Như thế, nghe bằng tâm trí là không
những chỉ hiểu Lời Chúa, mà còn làm cho Lời ấy trở nên sống động như thể
nghe từ miệng Chúa nói ra.
Lắng nghe
bằng lỗ tai của trái tim. Đó là ghi tạc Lời Chúa vào trái tim và cố
gắng tìm cách áp dụng Lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống.
Phanxicô Xaviê lên Paris theo đuổi khoa bảng dùi mài kinh sử để cuối
cùng trở thành giáo sư môn Triết học. Nhưng trên đỉnh cao danh vọng ấy,
một lần tiếp cận Tin Mừng, gặp được câu: “lời lãi cả thế gian mà mất
linh hồn liệu ích gì?” (Lc 9,25), Phanxicô Xaviê nghe lời này như nói
trực tiếp với mình. Lời đã đi vào trái tim đã giúp ngài lựa chọn định
hướng đời mình sao có lợi cho đời sống Thiên Chúa. Nghe bằng trái tim là
ghi khắc Lời Chúa vào nội tâm và vận dụng lời ấy vào cuộc sống hàng
ngày.
Lắng nghe
bằng lỗ tai của linh hồn. Đó là cầu nguyện với Chúa về Lời đã nghe
trong trái tim, như thánh Phanxicô Xaviê đã làm. Ngài từ bỏ tất cả công
danh sự nghiệp, nhận chức Linh mục, rồi sau đó cùng với Ignatiô thành
lập Dòng Tên với khẩu hiệu “cho vinh danh Chúa hơn”. Phanxicô Xaviê vẫn
khát vọng xa hơn là hiến thân loan báo Tin Mừng tận miền sâu miền xa của
địa cầu. Trong nhiều năm truyền giáo, ngài đã đi bộ tới trăm ngàn cây
số, và đã rửa tội với con số kỷ lục phỏng độ ba vạn người.
Đức Hồng Y
FX Nguyễn Văn Thuận khuyên : “Chính lúc rao giảng Tin Mừng, con phải
giữ sự thinh lặng bên trong, con phải để cho Chúa Thánh Thần nói với
con, và nói qua miệng lưỡi con.Thinh lặng là thời gian để cầu nguyện, để
chuẩn bị, để suy nghĩ, để chín mùi, để có năng lực mà loan báo Tin
Mừng” (Cầu nguyện, trang 109). Cuộc đời người tín hữu luôn lắng nghe Lời
Chúa. Đó là hành trình của Lời đã nghe, được diễn lại sống động nơi tâm
trí, ghi khắc vào trái tim và cầu nguyện trao đổi với Chúa, từ đó lắng
nghe điều Chúa muốn nhắn nhủ với bản thân qua Lời ấy.
Trong phúc âm Chúa Giêsu dạy: “Hãy để ý tới điều anh em nghe” (Mc 4,24); “Hãy để ý tới cách anh em nghe” (Lc 8,18).
5. Tạm kết
Tôn Ngộ
Không đã từng khuyên can Đường Tăng nhiều điều mắt thấy tai nghe, những
âm mưu của yêu ma quỷ quái dọc đường thỉnh kinh, nhưng Đường Tam Tạng đã
không nghe lại còn niệm chú xiết vòng kim cô, đuổi về hoa quả sơn nên
có rất nhiều hậu quả tại hại.
Trong
nghệ thuật điêu khắc dân gian, hình tượng con khỉ được mô tả mỗi con một
tư thế: một con bịt mắt, một con bịt tai và một con bịt miệng. Không
phải ai bịt con khỉ mà chính nó tự bịt miệng tai mắt của mình. Ba trạng
thái đó của khỉ, có thể hiểu là biểu hiện của thái độ “mũ ni che tai
hưởng thái bình”. Thực tế trong cuộc sống, không ít người quan niệm,
trước mọi vấn đề chướng tai gai mắt, tốt nhất là “có mắt không nhìn, có
miệng không nói, có tai không nghe” để giữ mình bình yên, an lạc. có thể
quan niệm trên cũng có phần nào đúng nhưng nếu hiểu hoàn toàn như vậy
có lẽ hơi phiến diện. Với 3 hình tượng đó có không ít người suy ra rằng :
hãy cứ sống an phận, mặc kệ những gì đang xảy ra xung quanh và họ mặc
nhiên bàng quan theo thuyết “Mackeno”(mặc kệ nó!). Nhưng giữa cuộc đời
đầy những điều thị phi và nhiễu nhương này, nếu cứ an phận như vậy thì
xã hội sẽ đi đến đâu, tình người sẽ về đâu? Và nếu cứ bịt tai, bịt mắt,
bịt miệng như thế cả cuộc đời thì thử hỏi cuộc sống có gì là thi vị nữa
không?
Ý nghĩa
hình tượng khỉ “ba không” là đừng nhìn đừng nghe đừng nói những điều
trái lẽ, bịt mắt để dùng Tâm mà nhìn, bịt tai để dùng Tâm mà nghe, bịt
miệng để dùng Tâm mà nói. Khi Tâm ở trạng thái “Tịnh” không bị quấy rầy
bởi những điều xấu thì từ Tâm mới phát sinh những điều “Thiện”. Ý nghĩa
tích cực của khỉ “ba không” là khuyên con người ta hãy có một cách hành
xử đúng. Muốn thính tai, sáng mắt, sách miệng thì phải tập luyện hàng
ngày, gìn giữ đôi mắt, đôi tai biết lắng nghe và kiềm chế miệng lưỡi.
Tết Bính
Thân đã cận kề. Hình tượng khỉ “ba không” là một sản phẩm vừa mang tính
nghệ thuật lại ẩn chứa nhiều ý nghĩa, bản thân tự nhắc nhở mình luôn giữ
gìn tai mắt miệng lưỡi cho đúng phẩm hạnh cốt cách. Mong rằng những ai
đang có món quà này trên bàn làm việc sẽ càng nhìn ngắm suy tư và áp
dụng vào cuộc sống.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
________________
1 cdnth6875.com; Phan Ngọc Quyến.
2 Hạnh phúc gia đình; Đỗ Hữu Bảng.
3 Nước mắt và hạnh phúc, Lm Nguyễn Tầm Thường.
4 Hạnh phúc gia đình; Đỗ Hữu Bảng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét