Trong chuyến hành hương Đất thánh vừa qua,
tôi nhớ đến và cầu nguyện cho tất cả mọi người người, mọi gia đình trong giáo
xứ. Tôi cám ơn Chúa đã cho tôi có cơ hội đến viếng thăm nơi Chúa đã sinh ra,
sống, chết và sống lại, và Giáo triều Rô-ma. Cuộc hành hương này làm cho đức
tin của tôi vững mạnh thêm. Cuộc hành hương Đất thánh có 2 phần.
Phần thứ nhất
ở khu vực Giêrusalem và tôi có dịp viếng thăm và dâng Thánh lễ ở những nơi như
hang động nơi Chúa sinh ra, nơi Chúa chịu thương khó và chết cho nhân
loại. Tôi có dịp đi đàng Thánh giá hay
thương khó của Chúa 2 lần. Chúa đã vác thập giá trên con đường dốc đến đồi Can
vê để chịu chết. Như chúng ta đã biết, Chúa đã bị đánh đòn và ngã xuống đất
nhiều lần vì đau đớn và khó nhọc. Ngày nay, họ đã xây và lót gạch con đường này,
nhưng vào thời xưa đây là con đường sỏi đá và hiểm trở. Tôi thật sự cảm nghiệm được vì yêu thương và
muốn cứu rỗi chúng ta, cho nên Chúa đã hy sinh vác thập giá là tội lỗi của nhân
loại chúng ta. Tôi được đến thăm nơi Chúa thương khóc dân thành Giê-ru-sa-lem
vì cứng đầu và từ chối ân sủng của Chúa đem đến, nơi Tông đồ Phê-rô đã chối
Chúa ba lần, cũng như nơi Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh thể và Chức Thánh, và
sau đó chiêm ngưỡng con đường Chúa đã bị lôi đi đến dinh Cai-pha và
Hê-rô-đê. Rồi tôi được đến tắm tại Biển
Chết.
Phần thứ hai tại Đất Thánh, tôi được viếng
thăm Na-za-rét nơi Chúa được sống trong tình yêu thương của Thánh Cả Giu-se và
Mẹ Maria, cũng như hội đường nơi Chúa thường đến để thờ phương và giảng
dạy. Trong những ngày kế tiếp, tôi đi
thăm biển hồ Tiberia nơi Chúa sống với các Tông đồ và làm nhiều phép lạ, cũng
như đến hang động Chúa đã cầu nguyện.
Tiếp đến, tôi đã đến thăm viếng nhà thờ kính Thánh Giu-se, dâng giáo xứ và mọi gia
đình lên cho Thánh Cả để Ngài gìn giữ che chở như Ngài đã gìn giữ che chở Đức
Maria và Chúa Giê-su. Tôi đã đến thăm nơi Chúa làm phép lạ đầu tiên hóa nước
thành rượu để giúp cho đôi tân hôn qua khỏi sự khó khăn, và cũng nơi đây tôi
cầu nguyện xin Chúa ban ơn lành cho các gia đình trong giáo xứ luôn yêu thương,
hòa thuận và trung thành với giao ước hôn nhân.
Sau đó, tôi đáp máy bay đến thăm Giáo đô
Rô-ma nơi có rất nhiều nhà thờ, trong đó có nhà thờ kính Đấng đáng kính Hồng y
Phan-xi-cô Xaviê Nguyễn Văn Thuận và nhà thờ có đầu của thánh An-rê Phú yên,
người Việt nam. Chúng ta biết, tại Rô-ma
này có rất nhiều dấu tích của những vị thánh, những người như chúng ta, đã sống
Lời Chúa và làm chứng cho Chúa. Nhiều
người đã chịu bắt bớ, giam cầm, hành hạ cho đến chết vì Chúa Ki-tô. Vì thế, cuộc sống của các ngài đã sinh ra hoa
trái tốt là những người tin theo Chúa, những người có lòng bác ái và quảng đại,
giúp Giáo hội xây những nhà thờ to lớn và kiên cố để thờ phượng, nhất là làm
sáng danh Chúa, và để lại những bằng chứng về lòng xác tín của họ cho chúng ta
ngày nay. Và cũng nơi đây, tôi cảm
nghiệm được lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội của họ, lòng hy sinh, bác ái và
quảng đại của nhiều người, cũng như công sức và lòng hy sinh phục vụ của họ.
Đây là vài dòng ngắn gọn kể lại cho ông bà
anh chị em về cuộc hành hương Đất Thánh và Giáo đô của Giáo hội Công giáo chúng
ta, với niềm hy vọng nhỏ nhoi là tăng thêm lòng xác tín của chúng ta vào Chúa,
để chúng ta can đảm sống Lời Chúa dạy và có lòng bác ái, quảng đại như những
tín hữu xưa. Họ đã trở thành những chứng
nhân anh dũng cho chúng ta ngày nay noi theo.
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết về
phép lạ Chúa chữa người mù Ba-ti-mê tại Giê-ri-cô. Thật đáng tiếc vì tôi không được viếng thăm
nơi này trong cuộc hành hương. Bình
thường thì chúng ta ít để ý tới sự quan trọng và cần thiết của đôi mắt, nhưng
khi bị đau mắt hay mờ mắt chúng ta mới thấy sự cần thiết to lớn của đôi mắt.
Anh Bartimê là một thanh niên bị mù, bị xã hội ruồng bỏ và ngồi ăn xin ở cổng
thành Giêricô. Anh ao ước được nhìn thấy. Thế nhưng năm tháng đi qua, không ai
có thể giúp anh được, anh phải lang thang đi xin ăn để sống qua ngày.
Hôm nay nghe biết Chúa Giêsu đi qua, anh
mạnh dạn kêu xin Chúa cứu chữa, người ta cấm anh, anh càng kêu lớn hơn. Anh đã
nghe được từ những người chung quanh quyền năng của Chúa và anh tin Chúa sẽ cứu
chữa anh. Hôm nay, anh không xin tiền, xin gạo, xin bánh như mọi khi, anh chỉ
ao ước một điều là xin Chúa chữa anh được nhìn thấy. Cho nên, khi nghe được tiếng Chúa gọi, anh đã
bỏ mọi sự vội vã chạy đến với Chúa. Lời kêu xin và thái độ của anh chứng tỏ
lòng tin sâu xa và mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa, và chính vì niền tin này
Chúa Giêsu đã cứu chữa anh, và khi được sáng mắt anh đã đi theo Chúa.
Còn chúng ta ngày nay thì sao? Không có người nào hiện diện trong nhà thờ này
mù lòa thể xác, thế nhưng chúng ta hãy thành tâm tự hỏi có bị mù lòa về tinh
thần không? Trong xã hội hôm nay có rất
nhiều cám dỗ lôi cuốn có thể làm cho chúng ta mù, hay có mắt mà không nhìn thấy
như cờ bạc, rượu chè, gian lam, ích kỷ, tự cao, lười
biếng, cứng lòng, và những điều này có sức tàn phá cuộc sống tinh thần cá nhân,
sự hòa thuận, hạnh phúc gia đình cũng như sự hiệp nhất của cộng đoàn. Do đó, muốn được chữa lành, phải can đảm mau
mắn như người mù trong bài Tin mừng, chạy đến Chúa Giêsu kêu cầu Người thương cứu
chữa. Chúng ta tin Chúa Giêsu muốn giúp
và chữa lành cho chúng ta như Chúa đã giúp người mù. Thật vậy không ai có thể cứu giúp chúng ta,
ngoại trừ Chúa Giêsu.
Có một câu chuyện về người đàn ông cứng
lòng và rất khó tính, luôn phê bình, chỉ trích người khác. Vì ích kỷ, ông
không bao giờ giúp đỡ hay quảng đại, và vì tự cao, cho nên ông không bao giờ
nhìn thấy điều gì tốt nơi người khác, nhất là những người không đồng ý hay làm
theo ý của ông. Bất cứ họ làm một việc gì kể cả việc tốt, thì ông cũng phải cố
tìm cho ra một lý do để chỉ trích, phê bình, hay cố tìm một khía cạnh, một
nguyên do để chống đối. Ông thường khinh thường và hay bắt lỗi những ý kiến,
những công việc của người khác, và tệ hơn nữa còn thường hay rỉ tai nói xấu
người khác gây chia rẽ. Thế rồi một ngày kia, được người vợ thúc đẩy dự buổi
tĩnh tâm, và được nghe linh mục cắt nghĩa về đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại câu
chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù bẩm sinh, ông bỗng sực tỉnh và
nhận thấy rằng tâm hồn mình đã thực sự bị mù loà vì đã không nhận ra được những
cái tốt đẹp, không nhận ra được những sự hy sinh, những công việc tốt lành, lòng
bác ái và quảng đại, không nhận ra được tấm lòng của những người khác. Ông đã lầm lạc và không sống trong ân sủng
của Chúa.
Xin Chúa ban cho chúng ta sự
can đảm và niềm tin của người mù, thành tâm và nhất quyết tìm đến Chúa để Người
hoàn lại ánh sáng, hoàn lại hạnh phúc, hòa thuận, bằng an cho cá nhân, gia đình
và ban cho mọi người trong giáo xứ chúng ta tình yêu thương hiệp nhất, để chúng
ta trở thành những nhân chứng của Chúa, có tấm lòng hy sinh, bác ái và quảng
đại chân thật xây dựng giáo xứ và làm sáng danh Chúa. Đó là Tin mừng chứa đựng trong Lời Chúa mà
chúng cử hành hôm nay.
Lm. Chánh xứ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét