Ông bà anh chị em thân mến. Đức Mẹ Hồn xác lên trời là một tín điều đối với
người Ki-tô Công giáo chúng ta. Sau cuộc đời trần thế, Đức Mẹ Maria, như Chúa
Giê-su con của Mẹ, đã được đưa về Thiên đàng hồn xác. Đây chính là ý nghĩa của
ngày lễ chúng ta mừng kính hôm nay.
Trong bài đọc 1 trích
sách Khải huyền, chúng ta nghe đề cập về một người nữ, một con trẻ và một con rồng
đỏ. Con rồng đỏ là biểu tượng của quỉ dữ
và quyền lực của nó đang hoạt động nơi trần gian. Con trẻ là Chúa Giê-su Ki-tô. Và người nữ có hai biểu tượng: một là Đức
Maria mẹ ruột thịt của Chúa Giê-su và hai là Giáo hội, Mẹ thiêng liêng của tất
cả chúng ta, đã đưa Chúa Giê-su đến với chúng ta qua đức tin và Bí tích. Sự
vinh quang của người nữ trong bài đọc một cũng có hai dữ kiện. Một là sự vinh quang của Đức Mẹ Maria hồn xác
lên trời và thứ hai là sự vinh quang của chúng ta là những Ki-tô hữu, trong
Giáo hội, hy vọng sẽ được tận hưởng khi cuộc đời trần thế của chúng ta chấm dứt.
Thánh Phan-xi-cô Đờ-Sa có
một câu hỏi đơn giản trong bài giảng về sự lên trời hồn xác của Đức Maria: “Người
con nào mà chẳng muốn mang sự sống lại đến cho mẹ mình và chẳng muốn cho mẹ
mình được đến nơi vinh quang củaThiên đàng sau khi qua đời nếu người con đó có
thể làm được?” Ông bà anh chị em, ai có thể chống lại hay không đồng ý với câu
hỏi đó? Trong sự lên trời hồn xác, vinh
quang của Chúa Giê-su phục sinh trước hết được mở rộng cho Đức Maria, Mẹ Chúa,
nhưng như chúng ta mừng kính hôm nay, chúng ta cũng hy vọng được chia sẻ sự vinh
quang phục sinh trong ngày sau hết.
Chúng ta tuyên xưng điều này trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người
ngày sau sống lại. Tôi tin cuộc sống đời
đời.”
Chúng ta cần chú ý đến sự
kiện Đức thánh cha Phi-ô Thứ mười hai đã công bố tín điều Đức Maria hồn xác lên
trời năm 1950, trong một thời điểm khó khăn và gay go với những kinh nghiệm đau
thương và và sự chết chóc to lớn của 2 cuộc thế chiến đã xảy ra, sự việc hỏa lò
của Đức quốc xã, cũng như quả bom nguyên tử và khởi đầu cho cuộc chiến tranh lạnh.
Con người nhân loại lúc đó có nhiều lý do để mang một tâm trạng tuyệt vọng. Ngược lại với sự bi quan hiện tại của con người
lúc đó, tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời đem đến cho nhân loại niềm hy vọng về vận
mệnh của con người không phải là chiến tranh, tàn phá và tiêu diện. Và trong thời điểm đó vào năm 1950, chủ nghĩa
sùng bái thân thể và tình dục đang bắt đầu lan tràn trong xã hội, giáo hội đã
nhìn nhận ra những sự nguy hiểm đe dọa cho những giá trị của hôn nhân và gia
đình. Ngược lại với những sự thỏa mãn và
tôn thờ thân thể là mục tiêu và là đồ vật của sự vui thú, trụy lạc, tín điều
này xác nhận sự cao quí, phẩm giá chân thật của thân thể, là nơi chất chứa ân sủng
và là khí cụ để vinh danh Thiên Chúa.
Trong sự hồn xác lên trời,
Đức Maria kết hợp hoàn toàn với con Mẹ trong vinh quang. Đức Maria vẫn luôn là
Mẹ Chúa Giê-su và Chúa Giê-su vẫn luôn là con Mẹ. Và Mẹ cũng là Mẹ của tất cả chúng ta, bởi vì
trên núi Ca-va-ry, chính Chúa Giê-su đã ban cho chúng ta một người mẹ, khi Chúa
nói với Mẹ và thánh Gioan người đại diện cho tất cả các môn đệ chúng ta: “Đây
là con bà.” Và “Này là Mẹ con.”
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta tin tưởng Mẹ Maria luôn quan tâm đến
ơn sủng cứu độ của chúng ta. Chúng ta
cũng tin tưởng Mẹ luôn cầu bầu cho chúng ta và chúng ta cầu nguyện với Mẹ. Chúng ta cầu xin Mẹ giúp chúng ta, động lực thúc
đẩy chúng ta biết noi gương của Mẹ và biết sống những nhân đức của Mẹ. Chúa
Giê-su đã trao phó cho Mẹ vai trò của một người bạn, một người thân hay người Mẹ
của chúng ta. Chúng ta tìm thấy những động lực, nhân đức sáng ngời trong cuộc đời
của Mẹ thúc đẩy chúng ta noi gương Mẹ. Thứ nhất như đau khổ. Sự đau khổ của Mẹ bắt đầu từ lúc Mẹ và Thánh
Giuse đem Chúa Giê-su hài nhi vào đền thờ, và nghe ông Si-mê-on nói tiên tri về
Chúa. Và
ông cũng đã nói với Mẹ rằng: “Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm
hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ.”
Chúng ta nhận thấy sự đau
khổ tiếp tục theo đuổi trong suốt cuộc đời của Mẹ qua những sự chống đối, thù
nghịch, phản bội và lên án của nhiều người, cho đến khi Mẹ đứng dưới chân thánh
giá. Chúng ta thấy Mẹ đã nhận chịu những
đau khổ với một sự can đảm và nhẫn nại.
Đó cũng là động lực giúp chúng ta
luôn trung thành với đức tin và với Tin mừng của Chúa Giê-su.
Động lực hay gương nhân đức
thứ hai mà chúng ta tìm được trong cuộc sống của Mẹ là phục vụ bác ái. Gương nhân đức này đã được thể hiện một cách
rõ ràng trong lời Mẹ thưa với thiên thần Chúa đến báo tin trở thành Mẹ Thiên
Chúa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.” Và gương nhân đức phục vụ bác ái này còn được
thể hiện khi Mẹ đến viếng thăm và giúp bà Ê-li-za-bét lúc đang mang thai. Cuối cùng, Mẹ đã phục vụ đôi tân hôn tại
Ca-na biết tìm đến Chúa khi họ đang gặp cảnh khó khăn. Gương nhân đức thứ ba là tinh thần cầu nguyện. Mẹ Maria có một đời sống cầu nguyện mẫu mực
và thâm sâu. Tin mừng cho chúng ta biết
khi thiên thần báo tin thì Mẹ đang cầu nguyện. Trong khi thăm viếng, Mẹ Maria đã cất tiếng cầu
nguyện cảm tạ Thiên Chúa khi hài nhi Gio-an trong lòng bà Ê-li-za-bét nhảy mừng
nhận ra Đấng cứu thế trong lòng Mẹ.
Gương cầu nguyện của Mẹ còn được thể hiện một cách rõ ràng lúc Chúa
Giê-su sinh ra. Tin mừng cho chúng ta biết:
“Maria ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng." Tinh thần cầu nguyện của Mẹ lên đến tuyệt đỉnh
như sách Tông đồ công vụ đã cho chúng ta biết, sau khi Chúa Giê-su lên trời: “Mọi
người (là các tông đồ) đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với mấy người phụ
nữ, và bà Maria mẹ Chúa Giê-su.”
Ông bà anh chị em thân mến. Mẹ Maria là động lực, là mẫu gương sáng và cuộc
đời của Mẹ chất chứa những nhân đức rạng ngời cho chúng ta là con cái của Mẹ.
Trong ngày lễ kính Mẹ hồn xác lên trời hôm nay, chúng ta cùng xin Mẹ giúp, hướng
dẫn và cầu bầu cho chúng ta biết noi gương, bắt chước và sống những nhân đức của
Mẹ, để chúng ta cùng được hưởng vinh quang phục sinh của Chúa Giê-su, con Mẹ,
trên Thiên đàng cùng Mẹ.
Lm. Quản Nhiệm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét