Thứ Ba, 14 tháng 2, 2017

Ngày Tình Yêu

Valentine’s Day (Ngày Tình Yêu) hay Saint Valentine’s Day (Lễ Thánh Valentine) là ngày nghỉ được nhiều người trên thế giới kỷ niệm vào ngày 14/2. Tại các nước nói tiếng Anh, đây là ngày truyền thống để những người yêu nhau bày tỏ tình yêu bằng cách gởi thiệp Valentine, tặng hoa hoặc tặng bánh kẹo cho nhau. Ngày lễ đặt theo tên của 2 vị trong số nhiều vị tử đạo của Thiên Chúa giáo thời sơ khai tên là Valentine. Các vị thánh được tưởng nhớ ngày 14 tháng Hai là Valentine thành Rôma (Valentinus presb. m. Romae) và Valentine thành Terni (Valentinus ep. Interamnensis m. Romae). Thánh Valentine thành Rôma là linh mục, tử đạo khoảng năm 269 và được an táng tại Via Flaminia. Hài cốt của ngài để ở nhà thờ thánh Praxed tại Rôma và ở nhà thờ Carmelite trên đường Whitefriar tại Dublin, Ai-len.
Thánh Valentine thành Terni là giám mục giáo phận Interamna (nay là Terni) khoảng năm 197, tử đạo trong thời bách đạo của hoàng đế Aurelian, cũng được an táng ở Via Flaminia nhưng khác địa điểm với thánh Valentine thành Rôma. Hài cốt của thánh Valentine thành Terni để ở nhà thờ chính tòa thánh Valentine tại Terni (Basilica di San Valentino).
Sách Catholic Encyclopedia (Bách khoa Công giáo) cũng nói về vị thánh thứ ba tên Valentine được tôn kính ngày 14 tháng Hai. Ngài chịu tử đạo ở Phi châu với các bạn khác, nhưng người ta không biết gì hơn về ngài. Không có yếu tố lãng mạn nào thể hiện trong tiểu sử các vị tử đạo này thời Trung cổ sơ khai. Khi thánh Valentine được liên quan sự lãng mạn hồi thế kỷ 14, sự khác biệt giữa thánh Valentine thành Rôma và thánh Valentine thành Terni hầu như không còn.

Ngày này được kết hợp với tình yêu lãng mạn theo chu kỳ Geoffrey Chaucer thời Trung cổ, khi mà truyền thống yêu thương phong nhã phát triển mạnh, và được kết hợp chặt chẽ với việc trao nhau những lời chúc yêu thương theo kiểu Valentine.
Các biểu tượng Valentine hiện đại gồm nét vẽ hình trái tim, chim bồ câu và hình Thần ái tình có cánh. Từ thế kỷ 19, các lời chúc viết tay phổ biến rộng rãi dẫn đến việc sản xuất hàng loạt các thiệp chúc. Việc gởi thiệp Valentine rất phổ biến ở Anh vào thời đó. Năm 1847, Esther Howland kinh doanh phát đạt ở Worcester, Massachusetts, về sản xuất thiệp Valentine làm thủ công theo kiểu Anh. Thiệp Valentine cũng phổ biến ở Mỹ hồi thế kỷ 19, việc tặng thiệp ngày nay vẫn phổ biến hơn là trực tiếp tỏ tình, tiên báo ngành thương nghiệp hóa các ngày lễ ở Mỹ. Ngày Tình Yêu được coi là một trong các ngày lễ tiêu chuẩn. Hiệp hội Thiệp Hoa kỳ ước tính mỗi năm có khoảng 1 tỷ thiệp Valentine được gởi, chỉ sau lễ Noel với khoảng 2,6 tỷ thiệp được gởi.
Lịch Công giáo Rôma năm 1969, lễ thánh Valentine vào ngày 14 tháng Hai được chuyển từ Công lịch Rôma sang lịch riêng (địa phương hoặc quốc gia) với lý do: “Dù lễ thánh Valentine đã xưa, được chuyển sang lịch địa phương, ngoài danh xưng của ngài, không ai biết gì hơn ngoài việc an táng ngài tại Via Flaminia vào ngày 14 tháng Hai”. Lễ này vẫn được cử hành ở Balzan (Malta), nơi tìm thấy hài cốt ngài, và cũng được các tín đồ Công giáo Truyền thống (Traditionalist Catholics, những người theo lịch cũ từ trước Công đồng Vatican II) cử hành.
Người ta cho rằng thánh Valentine chịu tử đạo do chính hoàng đế Claudius II hành quyết. Ông bị Valentine ám ảnh và đã tranh luận với ngài, muốn ngài bỏ đạo để bảo toàn mạng sống. Ngài cương quyết từ chối và còn thuyết phục Claudius gia nhập đạo, vì vậy mà ngài bị xử tử. Trước khi bị hành quyết, hoàng đế bắt ngài phải làm phép lạ chữa khỏi mù cho con gái viên cai ngục.
Truyền thuyết khác cho rằng hoàng đế thấy thanh niên độc thân thì làm binh sĩ tốt hơn nên ông cấm thanh niên lấy vợ sớm. Tuy nhiên, linh mục Valentine thấy vô lý và vẫn bí mật cử hành lễ hôn phối cho các thanh niên. Claudius biết chuyện liền ra lệnh bắt và tống giam Valentine. Trước giờ hành quyết, Valentine viết tấm thiệp Valentine đầu tiên gởi cho con gái viên cai ngục bày tỏ sự quý mến thân hữu, ký tên Valentine, và ngài bị xử trảm.
Theo lịch Athen cổ, thời gian giữa tháng Giêng và tháng Hai là tháng Gamelion, thời gian dành cho hôn nhân thánh của Thần Zeus và Thần Hera. Theo lịch La mã cổ, lễ Lupercalia được cử hành từ 13–15 tháng Hai, nghi lễ cổ này liên quan sự sinh sản. Đây là lễ hội địa phương của thành Rôma. Lễ hội phổ biến hơn là lễ hội Juno Februa, nghĩa là “Thần thanh tẩy Juno” hoặc “Thần Trinh Khiết Juno”, được cử hành vào 13 và 14 tháng Hai. Giáo hoàng Gelasius I (492–496) đã thành lập lễ này năm 946 để tưởng nhớ “những người mà tên họ được tôn kính trong nam giới, nhưng hành động của họ chỉ có Chúa biết, trong đó có Valentine”.
Nhiều người cho rằng có thể giáo hội Công giáo muốn Công giáo hóa lễ hội Lupercalia của dân ngoại. Theo William M. Green, giáo hội Công giáo không thể loại bỏ tận gốc lễ hội Lupercalia nên đã dành riêng một ngày kính Đức Mẹ Maria.
2Năm 1717, một nhà xuất bản ở Anh xuất bản cuốn The Young Man’s Valentine Writer (Văn sĩ Valentine của Thanh niên), gồm những câu thơ đầy cảm xúc dành cho những người trẻ đang yêu không thể tự sáng tác. Họ còn sản xuất một số thiệp có ghi những câu thơ và hình vẽ, từ đó người ta có thói quen dùng thiệp trao đổi nặc danh. Đó là lý do đột nhiên xuất hiện những câu thơ sinh động thời nữ hoàng Victoria.
Thiệp Valentine bằng giấy phổ biến ở Anh vào đầu thập niên 1800. Những tấm thiệp đẹp có dây đăng ten và nơ, giữa thập niên 1800 xuất hiện thêm dây đăng ten bằng giấy.
Từ giữa thế kỷ 20, việc tặng thiệp được mở rộng thành việc tặng quà ở Mỹ, thường là nam tặng cho nữ. Các món quà như vậy chủ yếu là hoa hồng và sôcôla gói trong giấy bóng đỏ theo hình trái tim. Vào thập niên 1980, công nghệ kim cương phát triển khiến cho Ngày Tình Yêu là dịp để tặng đồ trang sức. Theo kiểu trào phúng, Ngày Tình Yêu còn là Ngày Nhận thức Độc thân (Singles Awareness Day). Tại một số trường tiểu học Bắc Mỹ, học sinh trang trí lớp học, tặng thiệp cho nhau và cùng ăn kẹo. Tthiệp của các học sinh thường ngụ ý đánh giá cao về nhau.
Sự phát triển của Internet càng nâng cao và tạo các truyền thống mới, đó là thói quen tặng e-card (thiệp điện tử) cho nhau. Dù sao thì truyền thống và thói quen này vẫn tốt, rất nên duy trì.
Cứ mỗi lần tháng Hai về, khắp nơi đều thấy xuất hiện nhiều sôcôla, kẹo, hoa và những người yêu nhau tặng quà cho nhau nhân danh Thần Tình Yêu – Thánh Valentine. Ai là vị thánh đó và tại sao người ta kỷ niệm ngày này?
Nguồn gốc Ngày Tình Yêu còn là bí ẩn. Nhưng chúng ta biết rằng tháng Hai được coi là tháng lãng mạn. Ngày lễ thánh Valentine, như chúng ta biết ngày nay, có dấu tích của truyền thống Thiên Chúa giáo và La mã xưa. Vì vậy, ai là thánh Valentine và ngài được kết hợp với nghi lễ cổ này thế nào? Ngày nay, giáo hội Công giáo thấy có ít nhất 3 vị thánh khác tên Valentine hoặc Valentinus, các vị này đều tử đạo.
Một truyền thuyết cho rằng thánh Valentine là một linh mục hồi thế kỷ thứ ba ở Rôma. Khi hoàng đế Claudius II nhận định rằng các đàn ông độc thân là binh sĩ tốt hơn các đàn ông có vợ con, ông đã cấm nam giới kết hôn khi còn trẻ. Nhận thấy sự bất công của sắc lệnh, Valentine bất chấp và vẫn bí mật cử hành nghi lễ hôn phối cho những người trẻ. Việc làm của Valentine bại lộ, Claudius ra lệnh tử hình Valentine.
Các chuyện khác nói rằng Valentine có thể bị giết vì cố gắng giúp các tín đồ Thiên Chúa giáo trốn khỏi lao tù của đế quốc Rôma để khỏi bị hành hạ. Khoảng năm 498, giáo hoàng Gelasius đã công bố ngày 14 tháng Hai là lễ thánh Valentine.
Theo một truyền thuyết khác, Valentine đã gởi thiệp Valentine đầu tiên. Khi ở trong nhà tù, người ta cho rằng Valentine đã yêu một cô gái trẻ – có thể là con gái của cai tù, và cô đã đến thăm Valentine khi ông bị tù. Trước khi chết, người ta cho rằng ông đã viết một lá thư và ký tên Valentine, ngày nay cách bày tỏ này vẫn được dùng. Dù sự thật về Valentine vẫn mơ hồ, nhưng các câu chuyện chắc chắn nhấn mạnh vẻ quyến rũ của ông như một nhân vật anh hùng, cảm thông và lãng mạn. Không lạ gì ở thời Trung cổ, Valentine là một trong các vị thánh nổi tiếng ở Anh và Pháp.
Trong khi một số người tin rằng Ngày Tình Yêu được cử hành vào trung tuần tháng Hai, cụ thể là ngày 14, là để tưởng nhớ ngày qua đời hoặc ngày an táng Valentine – có thể vào khoảng năm 270. Một số người lại cho rằng có thể giáo hội Công giáo cử hành lễ thánh Valentine vào giữa tháng Hai để “Kitô hóa” (christianize) các dịp kỷ niệm của lễ hội Lupercalia của người không theo đạo. Thời La mã cổ, tháng Hai là khởi đầu mùa xuân và được coi là thời gian thanh tẩy (tẩy trần, tẩy uế). Nhà cửa được lau chùi sạch sẽ, rồi rắc muối và rắc loại lúa mì spenta (bột rất mịn) khắp trong nhà.
Lupercalia là lễ hội sinh sản, cử hành ngày 15 tháng Ba, tưởng nhớ thần Faunus (thần chăn nuôi của người Rôma), cũng tưởng nhớ những người sáng lập Rôma là Romulus và Remus. Bắt đầu lễ hội, các thành viên của Luperci – một phẩm trật trong các tư tế Rôma – họp nhau tại hang thánh (sacred cave), nơi mà hai trẻ Romulus và Remus được Sói Mẹ nuôi dưỡng. Các tư tế hiến tế một con dê – chứng tỏ sự sinh sản, và một con chó – chứng tỏ sự thanh tẩy.
Sau đó, các đàn ông cắt da dê thành từng mảnh, nhúng da vào máu hiến tế và đem ra đường, đập nhẹ dây da dê vào các phụ nữ và phần vụ thu hoạch. Không sợ hãi, các phụ nữ Rôma vui mừng được chạm vào bằng da dê vì họ tin rằng các dây da dê sẽ làm họ có thể sinh con vào năm sau. Cuối ngày, cũng theo truyền thuyết, các phụ nữ trẻ trong thành phố sẽ đặt giấy ghi tên mình vào một chiếc bình nhỏ. Các đàn ông độc thân sẽ rút thăm một tên trong chiếc bình đó và sẽ kết đôi với phụ nữ đã chọn được, thường thì kết thúc bằng một đám cưới.
Cách “rút thăm” để cặp đôi lãng mạn của người La mã tưởng chừng không mang tính Thiên Chúa giáo và không theo luật pháp. Sau đó, thời Trung cổ, người Anh và Pháp tin rằng ngày 14 tháng Hai là bắt đầu mùa chim giao phối, điều này thêm vào ý tưởng cho rằng giữa tháng Hai (Ngày Tình Yêu) nên là ngày dành cho sự lãng mạn.
Bài thơ cổ nhất có tên là Valentine vẫn còn ngày nay, bài thơ này của Charles – công tước Orleans – làm tặng vợ khi ông bị tù ở Tower of London sau khi bị bắt trong trận Agincourt. Lời chúc, được viết năm 1415, là một phần trong số di cảo được lưu trữ tại Thư viện Anh quốc ở London. Vài năm sau, người ta cho rằng Vua Henry V đã thuê một người tên là John Lydgate biên soạn lời chú thích gởi cho Catherine of Valois.
Tại Anh, Ngày Tình Yêu bắt đầu phổ biến rộng rãi khoảng thế kỷ VII. Khoảng giữa thế kỷ VIII, ngày này phổ biến đối với bạn bè và những người yêu nhau trong mọi tầng lớp xã hội, họ trao tặng nhau các kỷ vật yêu mến hoặc thư từ cho nhau. Cuối thế kỷ VIII, người ta in những tấm thiệp thay cho thư từ nhờ kỹ thuật in ấn tiến bộ. Thiệp chúc là cách để người ta dễ bày tỏ tình cảm hơn là nói trực tiếp. Thập niên 1700, người Mỹ tặng nhau những tấm thiệp tự làm. Thập niên 1840, Esther A. Howland bắt đầu bán những tấm thiệp đầu tiên ở Mỹ. Howland được coi là mẹ của Valentine.
Theo Hiệp hội Thiệp, ước tính mỗi năm có khoảng 1 tỷ thiệp được gởi vào dịp Ngày Tình Yêu, chỉ đứng thứ nhì so với việc gởi thiệp Noel – khoảng 2,6 tỷ tấm thiệp được gởi trong dịp Noel. Xấp xỉ 85% thiệp Valentine do phụ nữ mua. Ngày Tình Yêu cũng được kỷ niệm ở Canada, Mexico, Anh, Pháp và Úc. Ngày nay, hầu như nước nào trên thế giới cũng kỷ niệm Ngày Tình Yêu.
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ History.com)

Không có nhận xét nào:

Tìm kiếm ....