Trong
các nghi thức hôn nhân, bao giờ cũng thấy xuất hiện bóng dáng của tôn
giáo. Do đó, có thể khẳng định rằng tôn giáo là sức mạnh, là lẽ thật mà
con người nhắm tới khi nhân danh niềm tin để cử hành các nghi thức hôn
nhân.
Trong
niềm tin tôn giáo, người Công Giáo coi hôn nhân là một Bí Tích, theo
đó, lời thề hứa giữa 2 người yêu nhau không chỉ mang ý nghĩa của một khế
ước, một giao kèo giữa một người nam và một người nữ trước pháp luật.
Nhưng mang ý nghĩa của một ơn gọi, một bậc sống mà sự gắn bó bền chặt
của nó vượt qua mọi giới hạn của khế ước và giao kèo do con người có thể
đặt ra. Nó chính là hình ảnh giao ước giữa Thiên Chúa với con người. Và
trên tất cả, đó là một giao ước tình yêu, thánh thiện, vĩnh viễn mà hai
người trao nhau trước mặt Thiên Chúa, đại diện Giáo Hội và cộng đồng
dân Chúa. Có lẽ vì điểm này mà Hôn Nhân Công Giáo đang phải đối đầu với
những chỉ trích và phê bình về tính cách bền bỉ cũng như sự thánh thiện
của Bí Tích. Nhiều người thắc mắc nếu, “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết,
loài người không được phân ly” (Máccô 10:9), thì tại sao con số ly dị
của người Công Giáo ngày càng tăng?!!! Phải chăng những người này coi
thường Bí Tích, hoặc giá trị của nó không bảo đảm, cũng như không đem
lại những gì mà họ vẫn hằng tin tưởng.
Câu
trả lời là, thật ra không phải Bí Tích Hôn Nhân ngày nay không còn giá
trị nữa, nhưng như lời Chúa Giêsu đã trả lời bọn Pharisiêu lúc đó hỏi
Ngài về vấn đề ly dị, thì chính là vì lòng dạ con người đã không còn mềm
mại để đón nhận luật lệ của Thiên Chúa. Ngài đã bảo họ: “Vì lòng các
ngươi chai đá” (Máccô 10:5), nên mới có chuyện đó xảy ra. Bản thân Ngài,
Ngài đã mở màn cho sứ vụ rao truyền Tin Mừng bằng việc cùng với thân
mẫu và các môn đệ công khai xuất hiện giữa một tiệc cưới. Ở đó, Ngài đã
thực hiện phép lạ đầu tiên nhân danh tình yêu của đôi tân hôn đã mời
Ngài.
Một
chi tiết tuy rất nhỏ mà Thánh sử đã ghi lại về bữa tiệc hôm đó, nhưng
đã trở thành lý do khiến nhiều cặp vợ chồng sau này phải suy nghĩ; đặc
biệt khi họ gặp thử thách và hôn nhân của họ đi đến chỗ đổ vỡ. Ðó là,
đôi tân hôn hôm đó không hề biết tiệc cưới của họ thiếu rượu, và ai là
người đã cứu nguy cho họ.
Trong
Tin Mừng, Chúa Giêsu đã chữa lành nhiều bệnh tật, xua đuổi ma quỉ, cho
người chết sống lại, què đi được, mù xem thấy, điếc nghe được, cùi hủi
được lành sạch… Tuy vậy, Ngài lại không thực hiện một phép lạ nào để
chữa lành trong phạm vi tâm lý như cho người này, người khác khỏi nóng
nảy, giận hờn, bẳn gắt, tham lam, ghen tương, hoặc đưa một đứa trẻ hư
hỏng, mất dạy trở về.
Dĩ
nhiên, Chúa Giêsu có lý do để làm phép lạ Ngài muốn, cũng như lý do để
không làm điều con người muốn. Ngài cho người què đi, điếc nghe, mù
thấy, phong cùi lành sạch, người chết sống lại, xua đuổi ma quỉ… Tất cả
những việc làm này để minh chứng một điều là Thiên Chúa muốn làm gì cũng
được. Ngài quyền năng và tuyệt đối. Ngược lại, Ngài không làm cho con
người hết nóng nảy, giận hờn, ghen tương, tham lam, đố kỵ, khắc khẩu;
hoặc Ngài không đem đứa con hư hỏng trở về với bố mẹ nó vì Ngài muốn con
người phải làm việc ấy bằng tinh thần trách nhiệm, bổn phận và ý thức
trưởng thành. Con người phải cộng tác với ơn Ngài ban để tự lo liệu và
thăng hoa đời sống của mình. Ðây không phải là một thử thách hay trói
buộc, nhưng là một vinh dự của đời sống hôn nhân. Thánh Âugustinô nói:
“Khi Chúa dựng nên tôi, Ngài không cần hỏi ý kiến tôi. Nhưng khi Ngài
muốn cứu độ tôi, Ngài cần sự cộng tác của tôi.” Theo đó, khi Ngài để hai
người nam nữ lại gần nhau, tạo cơ hội cho họ tìm hiểu, và yêu thương
nhau, là Ngài tôn trọng sự lựa chọn và ý thức trách nhiệm của họ. Họ
phải làm chủ hành động của mình, và dĩ nhiên, bằng sự cộng tác với ơn
Ngài ban. Phần Ngài, Chúa Giêsu sẵn sàng ở đó để nâng đỡ, và giúp đỡ con
người ngay cả khi họ không biết điều này, hoặc lơ là không biết như đôi
vợ chồng trong tiệc cưới Canna.
Thực
vậy, Thiên Chúa chẳng luôn luôn thực hiện những phép lạ lớn lao trong
cuộc sống những đôi vợ chồng có lòng tin tưởng và phó thác nơi Ngài đó
sao. Niềm tin khẳng định được điều ấy, đó là với ơn Chúa phù giúp, với
thiện chí, và bằng nghị lực, mỗi người đều có thể kiềm chế để bớt nóng
nảy, bớt giận hờn, bớt lắm điều, bớt nghiện ngập, bớt cộc cằn, bớt thói
trăng hoa để vợ chồng hiểu nhau, chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau, chia
sẻ trách nhiệm và bổn phận của nhau để cùng đồng hành trên con đường hôn
nhân hạnh phúc. Và đó chẳng phải là những phép lạ lớn lao và đặc biệt
Thiên Chúa thực hiện trong tâm hồn và cuộc đời những kẻ tin nhận Ngài đó
sao. Một phép lạ biến ta thành người vợ, người chồng, người cha, người
mẹ hiền từ, ôn hòa, yêu thương, tha thứ, trung thành và thánh thiện.
Phép lạ này còn cao cả hơn phép lạ Ngài cho một người mù được thấy, một
người què được đi, một người điếc được nghe, và một người cùi hủi được
lành sạch. Bởi vì giá trị tinh thần thì quí trọng hơn giá trị vật chất.
Do đó, khi làm cho một người biến đổi từ nóng nảy ra hiền từ, từ bất
trung ra trung thành, từ ghen tương thành hiểu biết hẳn là còn cao cả
hơn nhiều.
“Ðức
tin con cứu con” (Matthêu 9:22), Chúa Giêsu đã nói điều này với người
đàn bà mang bệnh loạn huyết. Ngài cũng nói tương tự với ông đại đội
trưởng người Rôma khi ông này kêu cầu Ngài đến cứu người đầy tớ của ông:
“Hãy về đi, ông tin thế nào thì được như vậy” (Matthêu, 8:13). Nếu đức
tin đã giúp con người làm nên phép lạ như vậy, thì ta không nghi ngờ
gì, cũng đức tin ấy sẽ giúp con người loại trừ, hoặc sửa sang lại những
bệnh tật tâm lý là những cái thường đưa đến đổ vỡ, mất hạnh phúc và làm
tan nát đời sống hôn nhân của nhiều người.
Tóm
lại, hạnh phúc hôn nhân nếu nhìn theo khía cạnh tôn giáo thì niềm tin
chính là nền tảng vững chắc để đôi vợ chồng xây dựng hạnh phúc của họ.
Và niềm tin cũng chính là sức mạnh giúp họ vượt thắng những yếu đuối cá
nhân để cùng nhau cộng tác với ơn Chúa và với nhau xây dựng hạnh phúc
hôn nhân. Nhưng như Thánh Giacôbê đã nói: “Ðức tin không việc làm là đức
tin chết” (Giacôbê 2:17). Và một trong việc làm cần thiết ấy, đối với
những ai sống trong đời sống hôn nhân, là sự học hỏi, tìm kiếm hiểu biết
để sống với ơn gọi của mình; đặc biệt, học hỏi về bổn phận, trách nhiệm
người chồng, người vợ, người cha, người mẹ. Những điều này chúng ta có
thể học hỏi nơi học đường, trong sách vở, tại những khóa hội thảo, những
buổi tĩnh tâm, những người đạo hạnh và kinh nghiệm, cũng như tại các
văn phòng tư vấn chuyên môn. Bỏ qua hoặc coi thường những phương tiện
hiểu biết này; hoặc ngược lại, tự cho mình là biết tất cả hay không biết
gì vẫn không tránh khỏi trách nhiệm. Hơn thế nữa, nó càng chứng tỏ thái
độ thiếu thiện chí và cố gắng của chính mình.
Trần Mỹ Duyệt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét