Thứ Năm, 5 tháng 1, 2017

Đọc Sứ Điệp Hòa Bình 2017 - Trong Văn Hóa Ca Dao Việt Nam

 “Phi bạo lực: Một Đường Lối Chính Trị Vì Hoà Bình”. Đó là chủ đề của sứ điệp hòa bình Đức Thánh Cha Phanxicô gửi toàn thể thế giới. Sứ điệp này mang một nét đậm sắc cây mầm hiếu hoà trên đất Việt mang lại những hoa trái nhất định.

Một thế giới bất ổn và một xã hội đầy lo lắng:

“Trong khi thế kỷ vừa qua đã phải chứng kiến cảnh tàn phá của hai cuộc Thế chiến đầy chết chóc, mối đe doạ chiến tranh hạt nhân và rất nhiều cuộc xung đột khác, thì hôm nay, đáng buồn thay, chúng ta lại đang thấy chính chúng ta vướng mắc vào một cuộc thế chiến rất ghê sợ cứ tấn công từng phần. Không dễ gì biết được liệu thế giới chúng ta ngày nay có bạo lực nhiều hơn hay ít hơn ngày xưa, hoặc biết được liệu những phương tiện thông tin hiện đại và tính cơ động lớn hơn đã làm cho chúng ta ý thức hơn về bạo lực, hay, trái lại, làm cho chúng ta ngày càng quen với nó.” (SĐHB 2017, Số 2)

Bạo lực không là giải pháp, một truyền thống lâu đời nhắc nhở:

“Con một mẹ, hoa một chùm,
Thương nhau nên phải bọc đùm lẫn nhau.”

Câu ca dao ấy, luôn luôn nhắc nhủ con cháu sau này, có lớn lên, có giàu, có nghèo, có đau, có phúc lấy nghĩa của tình thương mà đối xử với nhau. Ai cũng lớn lên trên cùng một đất mẹ, uống chung một bầu sữa, nói một tiếng mẹ và sống trong một tình mẹ chở che. Việc yêu thương nhau từ gốc một mẹ ấy mà sống thuận hoà với nhau.

“Sứ điệp của Đức Kitô về phương diện này dạy chúng ta một cách tiếp cận triệt để tích cực. Ngài luôn giảng dạy tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa, vốn hằng đón nhận và tha thứ. Ngài dạy các môn đệ phải yêu thương kẻ thù (x. Mt 5,44) và đưa cả má bên kia ra nữa (x. Mt 5,39). Khi Ngài khiến những kẻ buộc tội không dám ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình (x. Ga 8,1-11), và khi, vào đêm trước khi chịu chết, Ngài bảo ông Phêrô xỏ gươm vào vỏ (x. Mt 26,52)” (SĐHB 2017, Số 3). Cuối cùng trên Thập giá Chúa Giêsu cũng 
“xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34)

Tình yêu thương kết nên mối hiếu hoà. 

Trong câu thường nói của người Việt Nam khi chỉ đến người khác, người Việt Nam thường nói đến từ ngữ “người ta”. Cụm từ đơn giản nhưng mang một ý nghĩa rất sâu sắc :Trong người có ta, trong ta có người. Người ở trong ta, ta ở trong người, khi chỉ đến người khác ta nhưng ta lại không khác người. Triết lý âm dương bàng bạc trong câu nói người Việt Nam để diễn dịch ý nghĩa “ trong âm có dương trong dương có âm”. Ảnh hưởng từ tư duy đến cách sống nên người Việt cũng lấy: “dĩ hoà vi quý” làm nguyên tắc sống hài hoà. “Thương người như thể thương thân”. Chính từ lối tư duy ấy mà người Việt có lối sống quân bình. Hài hoà với thiên nhiên, hài hoà với con người, hài hoà với vạn vật để cuối cùng cho chính mình tìm thấy hạnh phúc. 

“Sự thực thi dứt khoát và kiên trì đường lối phi bạo lực đã đem đến những kết quả đầy ấn tượng. Những thành công của Mahatma Gandhi và Khan Abdul Ghaffar Khan trong công cuộc giải phóng Ấn độ, và của Tiến sĩ Martin Luther King Jr trong công cuộc chiến đấu chống lại nạn kỳ thị chủng tộc sẽ không bao giờ bị quên lãng. Đặc biệt các chị em phụ nữ thường là những người lãnh đạo theo đường lối phi bạo lực, chẳng hạn như Leymah Gbowee và hàng ngàn phụ nữ ở Liberia, những người từng tổ chức các cuộc cầu nguyện và phản kháng một cách phi bạo lực, đã dẫn tới những cuộc hoà đàm cấp cao để kết thúc cuộc nội chiến thứ hai ở Liberia.” ((SĐHB 2017, Số 4). “Đức Gioan Phaolô II cứ nói mãi: “Cầu mong con người biết tranh đấu cho công lý mà không cần đến bạo lực, từ bỏ đấu tranh giai cấp trong các tranh chấp nội bộ của họ, và khước từ chiến tranh trong các tranh chấp quốc tế.”

Trọng tính hài hoà, để mưu cầu lấy phúc, người Việt ý thức rằng “không ai là một ốc đảo”, sống là sống chung, sống với, gắn liền cuộc sống của mình với người khác. Sự gắn bó này mạnh cho đến nỗi:”bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Làng nước là cụm từ quen thuộc nữa trên môi miệng người Việt. Từ phạm vi cá nhân cũng như phạm vi xã hội; từ việc cá nhân cũng như việc của cộng đồng cũng luôn sử dụng từ ngữ này. Nói chung Nước Việt ở trong vùng văn hoá nông nghiệp, nền văn hoá ấy được xây dựng trên nền tảng “Làng”, lấy văn hiến làng làm cơ sở kiến quốc. Từ ngữ làng gắn liền với nước là như thế. Khi hoạn nạn người ta kêu: “làng nước ơi”, khi nói ra cho mọi người, người ta cũng nói: “Trình làng nước”.

“Xóm giềng là nghĩa chí thân,
hoạn nạn tương cứu, phú bần tương tri”

Sống được với nhau hẳn đó cũng là một nền “nhân bản” đúng nghĩa Kitô giáo, theo Lời Chúa Giêsu dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).

Trong khung cảnh làng nước xưa ấy, không có cảnh thầy thợ, chủ tớ, bóc lột, bất công.
“cơm ăn chẳng hết thì treo,
việc làm chẳng hết thì kêu láng giềng”

Người nhà quê có thói quen làm đổi công cho nhau, người nhà này sang làm cho nhà kia, đến bữa thì ăn chung, nhà có thì đãi đằng thêm món thịt, nhà chẳng có thì cơm canh cá cũng xong. Hết việc nhà nọ thì làm cho nhà mình hoặc nhà nào khác. Giả như trong nhà có việc tang hay cưới, làng xóm kéo đến, mỗi người một tay, ai biết gì thì phụ nấy, chẳng ai tính công, ai cũng coi việc nhà khác như việc nhà của mình. Tinh thần làng xóm hỗ tương đó, nào có mấy khi tranh chấp, cãi vã. Quê hương cũng thanh bình từ những cái tình ấy, nên mỗi quê cũng có những “đất lề quê thói” nào đó, nhưng tựu trung nét đặc biệt nhất mà có thể thấy được là tinh thần hiếu hoà: “lấy chín bỏ làm mười” để rồi tự răn mình:

“Ở cho phải phải, phân phân.
Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa”. 
Cho nên cụm từ quen trên môi miệng “người ta” là kết quả trong cuộc sống giao hảo nhiều lắm. Từ khi ấy người ta biết sống và người ta cũng biết chết cho có ý nghĩa:
“Giúp nhau là nợ đồng lân.
Trời đất xoay vần, kẻ trước, người sau.
Chưa ai ba họ cùng giàu.
Chưa ai nghèo khó đến đâu ba đời.
Sống trên đời cùng nhau cấy cày,
Thác buông tay giàu mấy cũng không !
Hay chi độc dạ tham lòng.
Sao bằng để một tiếng “Trong” ở đời”.

Gốc rễ hòa bình từ nơi gia đình:

“Từ bên trong các gia đình, niềm vui của tình yêu tràn lan ra khắp thế giới và toả chiếu cho toàn thể xã hội.[17] Một đạo đức học về tình huynh đệ và sống chung hoà bình giữa các cá nhân và giữa các dân tộc không thể cậy dựa trên lôgich của sự sợ hãi, bạo lực và tinh thần khép kín, nhưng phải dựa trên tinh thần trách nhiệm, sự tôn trọng và sự đối thoại chân thành. Từ đó, tôi bênh vực việc giải trừ vũ khí và việc cấm chỉ cũng như hủy bỏ vũ khí hạt nhân: sự răn đe hạt nhân và sự đe doạ chắc chắn hủy diệt lẫn nhau không thể được dùng làm nền tảng cho một đạo đức học như thế.[18] Tôi bênh vực với sự khẩn trương tương đương đối với việc chấm dứt nạn bạo hành trong gia đình cũng như nạn lạm dụng và xâm hại phụ nữ và trẻ em.” (SĐHB 2017, 5)

Để xây dựng hòa bình, người Việt cũng nhắm tới việc đào luyện bản thân, trong cách ăn ở, lối cư xử, đến phẩm giá, đến nhân cách, chứ không để ý đến việc giàu nghèo hơn thua. Cốt lõi giá trị sống huấn luyện từ trong gia đình “chị ngã em nâng” và đạo hiếu luôn dạy “kính trên nhường dưới” và lấy nhân đức làm lẽ sống “giấy rách giữ lấy lề”, giữ “tay sạch lòng thanh”, luôn làm thước đo cho gia đình và từng người trong xã hội.

“Áp dụng Tám Mối Phúc vào việc thực hiện các trách nhiệm của mình. Đó là một thách đố xây dựng xã hội, cộng đồng và doanh nghiệp bằng cách hành xử như những người kiến tạo hoà bình. Đó là biểu lộ lòng nhân từ bằng cách từ khước sa thải nhân sự, tác hại môi trường, hoặc tìm cách thắng lợi với bất cứ giá nào. Để làm được như vậy đòi hỏi phải “biết sẵn sàng đối diện với điều mâu thuẫn phía trước, giải quyết điều đó và biến nó thành mối liên kết trong chuỗi của một tiến trình mới.”[20] Hành động theo cung cách này có nghĩa là chọn lựa tình liên đới như một đường lối kiến tạo lịch sử và xây dựng tình bằng hữu trong xã hội. Phi bạo lực chủ động là một cách biểu lộ rằng đoàn kết thì thực sự mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn xung đột. Mọi sự trong thế giới này đều liên hệ với nhau.” (SĐHB 2017, số 6)

Cái quan trọng trong đời sống cộng đoàn là có sống được với nhau không? Nếu không sống được với nhau người ta chỉ còn cách bỏ làng lên rừng mà sống một mình. Đời sống nông thôn có tính cách tập thể rất cao đưa tới sự Hiệp Nhất, hiệp nhất trong cùng một huyết thống, hiệp nhất trong cùng một xóm ngõ, đến hiệp nhất trong cùng một làng một nước. Chúng ta thấy tục giao hiếu giữa các làng xã là bằng chứng.

Theo tác giả Toan Ánh: “làng xóm Việt Nam có tục giao hiếu giữa hai hoặc nhiều làng. Về phương diện tế tự, sự giao hiếu giữa nhiều làng còn nhắm mục đích tương trợ lẫn nhau, hoặc tạo thân tình giữa dân những làng lân cận”. Giao hiếu cũng là cách thức bày tỏ tính cách hiếu hoà của người Việt xưa, người ta thường tổ chức lễ hội giao hiếu này vào Mùa Xuân, những làng giao hiếu tổ chức những đám rước quan viên lẫn nhau, gọi là rước giao hiếu. Làng  này rước đến làng kia tuỳ theo năm làng nào đứng ra tổ chức thay phiên. Sau khi vào đình tế lễ thần, họ tham dự bữa tiệc, hát xướng với nhau.

Nếu có điều gì mích lòng nhau, người Việt xưa dùng cách nói khéo hay dùng những người có tài giao hảo làm trung gian để hoà giải. Không ai muốn nuôi giận mãi, bởi vì “Giận quá mất khôn”, hơn nữa vì một dòng máu con Việt : “Máu chảy đên đâu, ruồi bâu đến đấy” có ích gì khi người ta giận nhau.

Tinh thần làng nước xưa ấy tiếp nhận Tin Mừng Chúa Giêsu qua các vị Thừa sai tiên khởi, đã làm ngạc nhiên đối với nhiều người, đến nỗi người ta không biết gọi là đạo gì, nên gọi theo những gì người ta thấy, đó là “đạo những người thương nhau”. Trong tâm khảm người Việt đã có một mảnh đất tình thương màu mỡ, như mảnh đất sẵn sàng đón nhận và sinh hoa kết trái hạt giống Tin Mừng đón nhận.

Tính cách làng xóm xưa ấy, đẹp như hình ảnh của cộng đoàn tín hữu tiên khởi chứ có kém gì: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau” (Cv 3, 44). Cái giàu cái nghèo nếu biết đem chia sẻ cho nhau như trong tình làng nước thì xã hội chẳng công bình sao? Tự trong nền văn hoá dân tộc đã có một tiền Phúc âm, nếu lấy những nét đẹp trong truyền thống làm nổi bật tính Tin Mừng, thì thấy rằng Tin Mừng đã trở thành cuộc sống, ăn rễ sâu trong nền văn hoá rồi. Đức Hồng y Ratzinger nhận định rằng: “Đức Tin tự nó là văn hoá. Không có đức tin trần trụi, cũng chẳng có văn hoá thuần tuý”.

Kết:

“Tất cả chúng ta đều mong muốn hoà bình. Nhiều người hằng kiến tạo hoà bình hết ngày này qua ngày khác khởi từ những cử chỉ và hành động nhỏ bé. Nhiều người đang chịu đau khổ, tuy nhiên, họ vẫn bền đỗ kiên nhẫn trong nỗ lực của mình để làm những người kiến tạo hoà bình.”[24] Trong năm 2017, ước chi chúng ta có thể tận hiến bản thân chúng ta một cách sốt sắng và chủ động cho việc loại trừ bạo lực khỏi tâm hồn chúng ta, khỏi lời nói và hành động của chúng ta, và cho việc chúng ta trở nên những người phi bạo lực và kiến tạo những cộng đồng phi bạo lực biết chăm lo cho ngôi nhà chung của chúng ta. “Không có gì là không thể nếu chúng ta hướng lên Thiên Chúa mà cầu xin. Mỗi người đều có thể là một người thợ kiến tạo hoà bình.” (SĐHB 2017, số 7).

Tinh thần hiếu hoà của người Việt là một điểm son trong nền văn hoá, ước gì truyền thống ấy ngày càng bén rễ sâu trong lòng dân tộc, nhất là nơi những người Kitô hữu, những người lãnh nhận sứ vụ xây dựng hoà bình trên trái đất.

Lm Giuse Hoàng Kim Toan
 

Không có nhận xét nào:

Tìm kiếm ....