Theo lịch phụng vụ của Giáo hội Công Giáo thì vào ngày 7 tháng 10 hằng năm, Giáo Hội mừng kính lễ Đức Mẹ Mân Côi (Our Lady of the Rosary).1
Cho nên, tôi thiết nghĩ thật là điều xứng hợp và rất hoan nghênh cho
Cộng Đoàn Công Giáo người Việt tại đây, đã có sáng kiến tổ chức 3 buổi
tĩnh tâm nói về các đề tài liên quan đến lòng sùng kính Đức Mẹ và Kinh
Mân Côi, nhằm chuẩn bị tâm hồn và lòng trí của chúng ta cho xứng hợp để
đón mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Lẽ đó, rất ư là thích hợp để chúng ta cùng
nhau tìm hiểu và học thêm về ý nghĩa và các tầm mức quan trọng của kinh
Mân Côi, tỷ dụ như nguồn gốc của nó và hiệu quả của việc đọc Kinh Mân
Côi, đó là lời cầu nguyện mạnh mẽ và hữu hiệu nhất theo giáo huấn của
Giáo Hội.
Đức
Trinh Nữ Maria trong những lần cuối cùng hiện ra đối với thời đại mà
chúng ta đang sống, đã đưa ra một hiệu quả mới cho việc đọc Kinh Mân
Côi, đến độ mà không có bất kỳ một vấn đề gì, một khó khăn nào dù cho có
nguy kịch đến đâu, mang tính cách tạm bợ hay lâu dài, và trên hết là
những lãnh vực thuộc đời sống thiêng liêng, trong đời sống cá nhân của
mỗi chúng ta, của mỗi gia đình, của các cộng đồng tôn giáo, của xã hội
mà chúng ta đang sống, ngay cả vận mạng và tương lai của thế giới, nếu
như chúng ta biết siêng năng lần hạt mân côi với lòng sùng kính và yêu
mến Đức Mẹ Maria, thì mọi vấn đề sẽ được giải quyết ổn thỏa. Như Mẹ
Maria đã hứa với chúng ta, khi Mẹ hiện ra tại Fatima, nước Bồ Đào Nha
vào năm 1917, với ba trẻ chăn cừu, đó là Lucia, Jacinta và phanxicô và
Mẹ đã ban cho chúng ta mệnh lệnh này: LÀ CÁC CON HÃY SIÊNG NĂNG LẦN HẠT
MÂN CÔI, TÔN SÙNG TRÁI TIM MẸ, VÀ BIẾT ĂN NĂM SÁM HỐI.
Nếu
các con thực thi các điều ấy thì thế giới sẽ có hòa bình và không còn
chiến tranh tàn khốc nữa, và nước Nga sẽ thoát khỏi ách cộng sản vô
thần. Vâng lời Mẹ Giáo Hội Công Giáo, thuộc đủ mọi thành phần từ Đức
Giáo Hoàng, cho đến hàng ngũ giáo dân, ai nấy đều cố gắng vâng theo và
quyết tâm tuân giữ 3 mệnh lệnh của Mẹ, và chỉ một năm sau, thế chiến thứ
I đã kết thúc, thế giới đã được thoát khỏi cảnh chiến tranh tương tàn,
vô cùng ác nghiệt. Hòa bình đã trở lại cho nhân loại. Tuy nhiên, lời mời
gọi của Mẹ Maria dường như vẫn chưa được mọi người lắng nghe một cách
thành tâm và có lẽ ít có mấy ai thực hành 3 mệnh lệnh của Mẹ, nên sau đó
nhiều năm, đệ chiến thứ II đã bùng nổ vào năm 1939 và kéo dài cho đến
1945 mới chấm dứt. Hàng triệu mạng người đã chết và đã hy sinh một cách
phí phạm, vì lòng tham vọng và ích kỷ của con người, nhất là sự tham
vọng ngông cuồng của các kẻ lãnh đạo thời bấy giờ.
Thế
giới mà chúng ta đang sống cũng vẫn còn nhiều hiềm kích và tranh giành
về quyền lợi, đất đai, về lãnh thổ biên giới, và chiến tranh hiện nay
đang diễn ra tại nhiều quốc gia trên thế giới. Cơ nguy của đoàn quân
phiến loại Hồi Giáo, Islam State (IS), đang là mối đe doạ cho nền hòa
bình của cả thế giới. Đứng trước những tai ương như thế, người tín hữu
Công Giáo cần phải hành xử như thế nào cho phù hợp với tinh thần của
Phúc Âm, của giáo huấn Giáo Hội liên quan đến vấn đề công lý và hoà
bình, và nhất là đối với mệnh lệnh của Mẹ Maria vẫn hằng vang vọng nơi
chúng ta.
“Không có vấn đề hoặc khó khăn nào mà chúng ta không thể giải quyết
được bằng lời cầu nguyện của Kinh rất Thánh Mân Côi. Với Kinh rất Thánh
Mân Côi, chúng ta sẽ giải cứu được bản thân mình; chúng ta sẽ tự thánh
hóa bản thân; chúng ta sẽ an ủi Chúa, và sẽ cứu được nhiều linh hồn.” 3
Như chính chị Lucia đã thố lộ cho cha Fuentes qua cuộc đối thoại vào
ngày 26 tháng 12 năm 1957. 2
Những
lời phát biểu của chị Lucia (Sr. Lucy) trên đây chắc chắn tạo thành một
lời biện hộ đẹp nhất mà có thể thực hiện được qua kinh Mân Côi. Chắc
chắn, nó sẽ là những lời cầu nguyện hữu hiệu nhất để chạm vào trái tim
của Thiên Chúa, cũng như không nghi ngờ gì, lời cầu nguyện của phụng vụ:
bao gồm Thánh lễ và Kinh Nhật Tụng (các kinh nhật tụng của các linh mục
và tu sĩ nam nữ) cũng có hiệu lực mạnh mẽ như vậy. Kinh Mân Côi đã
không bao giờ được tuyên bố là để thay thế cho phụng vụ. “Nhưng ngược
lại, phụng vụ không che khuất Kinh Mân Côi, chính Kinh Mân Côi tự nó có
hiệu lực đưa con người đến gần với Thiên Chúa và giúp con người khám phá
ra lòng lân tuất, và yêu thương của TC, như chính Đức trinh nữ Maria đã
từng cảm nhận.
“Linh
hồn tôi tung hô Chúa, và thần trí tôi nhảy mừng trong Chúa, Đấng cứu độ
tôi, vì Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tôi tới Chúa, để từ này
đến muôn đời sẽ khen tôi có phúc, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi muôn
đời đến muôn ngàn đời, vì Đấng quyền năng đã làm cho tôi muôn điều trọng
đại và danh Ngài là Chí Thánh. Lòng thuơng xót Chúa trải dài từ đời nọ
đến đời kia, dành cho những ai kính sợ Người.”
Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã đề xuất kinh Mân Côi như một vũ khí hữu hiệu tinh thần nhằm chống lại các tệ nạn đã gây nên đau khổ cho xã hội.
Trong
số các vị Giáo Hoàng gần đây, nhất là từ thời công đồng Vatican II, đã
đóng góp vai trò tích cực trong việc thúc đẩy và ủng hộ việc lần chuỗi
Mân Côi. Tôi muốn đơn cử một vài vị Giáo Hoàng có tên sau đây, như là
những khuôn mặt cụ thể trong việc cỗ võ việc sùng kính Đức Mẹ và chuỗi
Mân Côi: Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, Quan trọng hơn cả là ĐGH Phaolô đệ lục (Paul VI) trong Tông Huấn (Marialis Cultus – Marian Cultivation) của Ngài đã nhấn mạnh đến việc cổ võ và quảng bá lòng sùng kính Đức Mẹ, theo tinh thần của Công đồng Vatican II.
Đức Thánh cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã thường khuyến khích việc đọc Kinh Mân Côi thường xuyên.
Ngài đã tiết lộ với chúng ta rằng, “Từ những năm khi ngài còn là thiếu
niên thì Kinh Mân Côi đã có một vị trí quan trọng trong đời sống cầu
nguyện của Ngài.
Đức
cố Giáo hoàng Gioan Phalô II cho biết, chính Ngài cũng đã được nhắc nhở
một cách mạnh mẽ về điều này trong chuyến thăm của Ngài tại Ba Lan, và
đặc biệt là ở các đền thờ kính Đức Mẹ tại Kalwaria.
Đức cố Giáo hoàng Gioan Phalô II đã nói:
Kinh
Mân Côi đã đồng hành cùng tôi trong những giây phút hân hoan, vui vẻ và
cả trong những giây phút đầy khó khăn. Tôi đã phó mặc tất cả mọi nỗi âu
lo cho Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi và tôi luôn luôn tìm thấy nguồn
hoan lạc, sự ủi an và nguồn hy vọng từ lời kinh Mân Côi. 24 năm về
trước, vào ngày 29 tháng 10 năm 1978, chỉ vỏn vẹn chưa đầy 2 tuần lễ sau
khi tôi được đắc cử Giáo Hoàng, nối quyền thánh Phêrô, vị Tông Đồ Cả
của Giáo Hội, Tôi đã thẳng thắn thừa nhận: “KINH MÂN CÔI, CHÍNH
LÀ LỜI KINH MÀ TÔI YÊU QÚY. MỘT LỜI CẦU NGUYỆN TUYỆT DIỆU! TUYỆT DIỆU
TRONG SỰ SỰ GIẢN DỊ VÀ TRONG CHIỀU SÂU CỦA NÓ. THẬT VẬY, LỜI KINH MÂN
CÔI ĐƠN SƠ NHƯNG LẠI DIỄN TẢ VÀ GHI DẤU NHỊP ĐIỆU CỦA CUỘC SỐNG CON
NGƯỜI.”3
Trong
lịch sử của GHCG, hiếm khi nào một lòng sùng kính xuất hiện cách đột
ngột. Các phương pháp sư phạm của Thiên Chúa thường phải mất nhiều thế
kỷ để chuẩn bị tâm hồn người tín hữu, hầu họ có thể đón nhận nó. Kinh
Mân Côi, người ta có thể nói, được xuất phát từ thói quen của các Kitô
hữu tiên khởi nhằm nói lên và bày tỏ tấm lòng biết ơn đối với Đức Trinh
Nữ Maria cho tất cả những lợi ích mà Mẹ đã đem lại cho nhân loại; đó là
những câu thơ trong thế kỷ thứ năm bởi Sedulius chèn vào trong phụng
vụ: danh dự, cùng với niềm vui của một người mẹ / sự đặc ân lớn lạo mà
TC ban cho Mẹ, là có con mà vẫn còn trinh khiết, không một tì ố, lẽ đó
Mẹ có danh hiệu là Vô Nhiễm Nguyên Tội. Chỉ có một mình Mẹ Maria là
người duy nhất trên trần gian được lãnh nhận đặc ân cao cả đó. Vì trước
Mẹ và mãi mãi sau này sẽ không có ai được như thế nữa.
Lời kinh thắm thiết cầu khấn cùng Đức Mẹ Maria – ngoài kinh Kính mừng Maria – mà Kitô hữu đọc hầu như thuộc lòng là kinh “Salve Regina – Lạy Nữ Vương”.4
Lạy Nữ Vương Mẹ nhân lành
làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy.
Thân lạy Mẹ, chúng con, con cháu E-và
ở chốn khách đầy, kêu đến cùng Bà;
Chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khấn Bà thương.
Hỡi ôi! Bà là Chủ bầu chúng con, xin ghé mặt thương xem chúng con.
Đến sau khỏi đày, xin cho chúng con được thấy Đức Chúa Giêsu,
Con lòng Bà gồm phúc lạ.
Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay, Thánh Maria trọn đời đồng trinh.
Kế tiếp là kinh ‘Ave Maria Stella’5
Hỡi Ngôi Sao của đại dương
Cổng chính của Thiên Ðàng
Ðấng mãi mãi Ðồng Trinh
Của Thiên Chúa tối cao
Ôi lời chào mừng của Thiên sứ Gabriel
đã thốt ra từ xưa
Tên của Eva đọc ngược,
Cũng cố hòa bình dưới thế
bẻ gãy gông cùm cho kẻ bị giam cầm
ánh sáng cho người mù lòa tội nghiêp,
xua đuổi mọi bệnh hoạn
mọi niềm sung sướng hạnh phúc chúng con khẩn nguyện
Ngài là Mẹ của chúng con
dâng lên Chúa những tiếng thở dài
thay cho chúng con
Ngài sẽ không chê bỏ
Nữ Trinh của mọi Nữ Trinh
là nơi trú ẩn cho chúng con
dịu dàng nhất trong những người hiền dịu
hãy làm cho chúng con đức hạnh và dịu hiền
Chúng con vẫn đang lữ hành dưới thế
Xin hãy giúp đở cho sự yếu đuối của con,
để cùng với Mẹ và Chúa Giêsu
chúng con hân hoan mãi mãi
trên thượng tầng Thiên Ðàng
với Ba Ngôi toàn năng
Cha, Con và Thánh Thần
cùng hưởng phúc vinh hiển,
Amen.
Lời kinh KÍNH CHÀO MẸ NỮ VƯƠNG (Salve Regina), cũng như kinh MẸ LÀ NGÔI SAO BIỂN (Ave Maria Stella)
và một số những bài thánh ca khác, xuất phát từ một nguồn cảm hứng
tương tự. Tất cả các loại chào kính Mẹ, được diễn tả qua các bài thánh
ca, hầu như phát triển sáng ngời trong lòng đạo đức của các giáo sĩ và
giáo dân, nhiều hoặc ít tuỳ theo cảm hứng của mỗi cá nhân. Như chúng ta
đã được chính kiến bài Salve Regina của Thầy Hermann der Lahme,
Dòng Bênêđíctô (+ 1054). Đây là hình thức đạo đức phát triển đặc biệt
trong thời Trung Cổ, sau sự sùng kính Đức Mẹ tuyệt vời lấy nguồn cảm
hứng từ Thánh Bernard (Bênađô).
Việc
chiêm ngắm Đức Trinh Nữ Maria, và những đặc quyền của Mẹ, cũng như
những ân huệ mà Mẹ đã ban cho con cái của mình đã được coi như là một
niềm vui lớn hơn tất cả những niềm vui khác. Chính niềm vui lớn lao này
và lời ngợi khen 8 ca tụng Mẹ đã trở thành tên của Kinh Mân Côi “KÍNH
MỪNG MARIA ĐẦY ƠN PHÚC.”
Trong
thời Trung cổ, biểu tượng của niềm vui là những bông hoa hồng. Đặt
vương miện trên đầu của một người với một vòng hoa hồng (một vòng hoa
đội trên đầu) là một dấu hiệu của niềm vui. Đức Trinh Nữ Maria thậm chí
còn được gọi là “vườn hoa hồng.” Trong ngôn ngữ Latin thời Trung cổ, một
vườn hoa hồng cũng có ý nghĩa là chuỗi Mân Côi (a garden of roses is rosarium).
Người
ta cảm thấy tại mỗi lời chào, Đức Trinh Nữ Maria tự mình cảm nhận được
cái dư âm của niềm vui trong giây phút Thiên Thần truyền tin. Nó không
chỉ là vấn đề tự mình làm cho mình được cảm thấy hân hoan, vui sướng khi
chúng ta nghĩ về Đức Mẹ; nhưng mục đích của chính của lời chào, mỗi khi
chúng ta đọc Kinh Kính Mừng là để chúng ta cùng chia sẻ niềm vui trong
trái tim của Mẹ Maria. Những lời chào đã được hình thành như rất nhiều
bông hoa hồng tinh thần dâng cho Đức Trinh Nữ Maria như thể trang điểm
cho Mẹ một chiếc vương miện hoành tráng, một vòng hoa đội trên đầu. Đổi
lại, Mẹ của chúng ta sẽ đặt trên đầu của con cái Mẹ một vương miện bất
khả chiến bại của hoa hồng, của ân sủng thiêng liêng. Và đó là ý nghĩa
và mục đích của việc đọc Kinh Kính Mừng.
Lý
do quan trọng nhất để mạnh mẽ khuyến khích việc thực hành và siêng năng
lần Chuỗi Mân Côi là nó đại diện cho một phương thế hiệu quả nhất để
bồi dưỡng đời sống tâm linh cho các tín hữu, qua việc cam kết chiêm
ngưỡng mầu nhiệm Kitô giáo mà Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đã đề xuất
trong Tông Thư Millennio Ineunte Novo (“Bắt đầu của
thiên niên kỷ mới”) như là một phương thế “đào tạo trong sự thánh thiện”
chính quy: “Điều cần thiết cho đời sống người Kitô hữu chính là nghệ
thuật biết cầu nguyện. Cũng giống như nền văn hóa đương đại, thậm chí
trong những bối cảnh có nhiều dấu hiệu cho thấy có vẻ hơi bi quan, sự
xuống dốc đời sống thiêng liêng của các giáo hữu Công Giáo, nhiều nơi
thờ phượng đã bị bỏ rơi, nhà thờ bị đóng cửa vì không có linh mục hoặc
không có giáo dân tham dự thánh lễ, thì tại một số nơi, chúng ta cũng đã
nhìn thấy và chứng kiến sự nở rộ của 9 các phong trào và các đoàn thể
mới lo cho đời sống tâm linh, ví dụ như tại giáo xứ của chúng ta tại
đây, những năm trước đây, chúng ta chưa có nhóm LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA,
HOẶC NHÓM MÂN CÔI, bây giờ thì đã được thành lập và sinh hoạt rất sống
động…., qua đó chúng ta nhận ra được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần
(CTT) và Ngài đang tác động trên chúng ta, và Ngài cũng không ngừng hoạt
động trong lòng Giáo Hội, trong cộng đoàn nơi chúng ta sinh sống để dẫn
đưa chúng ta trở về với Thiên Chúa.
Cầu nguyện cho hòa bình và cho gia đình.
Một
số hoàn cảnh lịch sử cũng làm cho sự hồi sinh của Kinh Mân Côi khá kịp
thời. Trước hết, chúng ta cần phải nài xin Thiên Chúa ban hòa bình cho
thế giới mà chúng ta đang sống.
Kinh
Mân Côi đã nhiều lần được đề xuất bởi một số Giáo Hoàng, ví dụ, như Cố
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, như là một lời cầu nguyện cho hòa bình. Vào
đầu thế kỷ XXI này, bắt đầu với cuộc tấn công khủng khiếp vào đất nước
Mỹ, quân khủng bố vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 đã cho máy bay chở đầy
hành khách đâm vào hai tòa nhà thương mãi tại Thành Phố Nữu Ước (The
Twin Towers Building) và đã gây thiệt mạng cho hơn 3.000 người dân vô
tội. Có thể nói thế kỷ mà chúng ta đang sống, hầu như mỗi ngày, chúng ta
chứng kiến không biết bao nhiêu là những cảnh đổ máu và bạo tàn đang
diễn ra trong thế giới của chúng ta.
Việc
tái khám phá Kinh Mân Côi có nghĩa là để đắm mình trong chiêm niệm của
mầu nhiệm Chúa Kitô, Đấng “chính là hòa bình của chúng ta”, kể từ khi
Ngài thực hiện sự hiệp nhất, và phá đổ bức tường ngăn cách của sự thù
địch” (Eph 2:14). Do đó, người ta không thể đọc kinh Mân Côi mà không có
cảm giác bị cuốn vào một cam kết rõ ràng để thúc đẩy tiến hành hòa
bình, đặc biệt là ở các vùng đất của Chúa Giêsu, vẫn còn nhiều tranh
chấp giữa người Do Thái và người Palestine.
Một
nhu cầu tương tự đối với các cam kết và cầu nguyện bằng kinh mân côi
được phát sinh liên quan đến một số vấn đề quan trọng trong thời hiện
đại: đó là đời 10 sống hôn nhân và gia đình, là các tế bào sơ cấp của xã
hội. Gia đình ngày càng bị đe dọa bởi các hệ tư tưởng, như chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa vật chất; sự thiếu tinh thần dấn thân, thiếu lòng vị
tha và lòng yêu mến. Thay vào đó là lòng ích kỷ, chỉ biết sống cho bản
thân của chính mình, đã làm cho hạnh phúc gia đình và đời sống lứa đôi
chóng tan rã và đi đến sự ly dị. Hiện nay theo các thống kê cho biết,
thì trong vòng 5 năm thành hôn, sẽ có 1/3 các cặp hôn nhân sẽ chia tay
và ly dị. Điều này xảy ra khá phổ biến ở các nước phương Tây và tiếp tục
làn tràn sang các quốc gia phương Đông. Đứng trước những thảm hoạ như
thế, chúng ta cần làm sống lại và phục hồi kinh Mân Côi trong gia đình
Kitô giáo, trong bối cảnh của mục vụ rộng lớn hơn cho gia đình, sẽ là
một sự trợ giúp hữu hiệu để chống lại những tác động tàn phá gây nên
cuộc khủng hoảng trong đời sống gia đình, điển hình đang xảy ra trong
thời đại chúng ta.
Để
minh họa và làm bằng chứng cho sự hữu ích của việc siêng năng lần chuỗi
mân côi. Tôi xin mạn phép kể cho qúy ông bà và anh chị em nghe một câu
chuyện có thật, được một người bạn rất thân của tôi tâm sự với tôi. Câu
chuyện của chuỗi tràng hạt Mân Côi.
Cách
đây khá lâu, tôi hân hạnh được mời dung cơm tối thân mật với một người
bạn thân của tôi, và trong khi trò chuyện, tôi hỏi anh ta: “Nếu bạn được
mời để chia sẻ với mọi người về kinh nghiệm tôn giáo của bạn, thì bạn
sẽ nói điều gì với họ.”
Anh
ta dừng lại một chút, rồi trầm tư suy nghĩ như là để tâm tìm kiếm thông
qua bộ nhớ của anh, để anh có thể chọn ra một câu chuyện lý thú và có ý
nghĩa để kể cho tôi nghe. Anh nói với tôi, “Cha biết không! Ba mươi năm
trước đây, con không phải là người Công giáo. Con được lãnh nhận bí
tích rửa tội khi con lên mười bốn tuổi và là thành viên đầu tiên của gia
đình con trở thành người Công giáo. Như cha đã biết, khi cộng sản chiếm
miền Nam VN vào năm 1975. Con lúc đó rất đau khổ, vì gia đình con đã
mất tất cả mọi thứ. Con đã bị gửi đến trại tập trung học tập trong một
năm, và con không hiểu tại sao nhà nước VN lại thả tôi về tại thời 11
điểm đó. Trong khi tất cả các đồng đội của con vẫn còn bị giữ ở lại. Đối
với con bất cứ khi nào, con nhìn lại sự kiện này, con luôn luôn tin
rằng, đó là một đặc ân lớn lao mà con đã nhận được từ Mẹ Maria.”
Sau
đó, vào năm 1978, ba mẹ con muốn con rời bỏ đất nước VN, vì lý do an
toàn của riêng con, vì vậy gia đình và ba mẹ đã đứng ra tổ chức vượt
biên cho con. Một đêm, chúng con bí mật xuống thuyền và chúng con bắt
đầu cuộc hành trình vượt biển của mình. Chúng con đã phải đi thuyền qua
sông đầu tiên, trước khi chúng con có thể đi ra biển, và từ đó, chúng
con có thể có thể đi thuyền đến Thái Lan hay Malaysia.
Thật
không may, trong khi tàu của chúng con vẫn còn trên sông. Chúng con đã
được phát hiện bởi các tàu tuần tra của Công An, vì vậy họ đã bắn vào
chúng con. Một số người trong chúng con đã cố gắng để trốn thoát bằng
cách nhảy xuống nước và bơi.
Lúc
đó trời đã rất tối vào ban đêm, vì vậy chúng con đã không nhìn thấy rõ
ràng, và chúng con cũng không biết mình đang ở đâu, không thể nào định
được phương hướng để trốn chạy. Chúng con chỉ cố gắng bơi thoát khỏi
thuyền.
Thật
là may mắn, con đã bị trôi dạt đến một bán đảo nhỏ. Nó rất tối vào ban
đêm, vì vậy con đã phải vất vả kiếm tìm lối ngõ xung quanh. Con rất sợ
hãi lúc bấy giờ vì ngại rằng: con sẽ bị phát giác và nhìn thấy bởi những
người dân địa phương. Nếu họ nhìn thấy con, họ sẽ biết ngay rằng con là
một người vượt biên, như vậy bất cứ điều gì có thể xảy ra với con.
Nhưng con không biết đi đâu, con rất lo lắng và vô cùng tuyệt vọng.
“Ai có thể cứu con bây giờ”? con tự hỏi bản thân mình – Chỉ có Trời! Có Chúa mà thôi. Con tin như vậy.
Vào
lúc đó, con thò tay vào túi quần của con để xem coi những vật phẩm quý
giá mà gia đình con đã cho coi nó có còn đó hay không? Con hết sức ngạc
nhiên khi khám phá ra rằng: tất cả chúng đã biến mất, ngoại trừ chỉ còn
lại một món hàng duy nhất vẫn còn có trong túi của con, đó là chuỗi
tràng hạt mà con đã luôn luôn mang nó trong túi của con. Con lấy nó ra
và con bắt đầu đọc kinh cầu nguyện với Đức Mẹ.
Con
cầu xin Mẹ Maria hướng dẫn con và chỉ đường cho con một người nào đó
trong làng mà người đó sẽ vui lòng giúp đỡ và chấp nhận che giấu con, để
con có thể được bảo vệ.
Sau khi dâng lời cầu nguyện với Đức Mẹ. Con lấy hết can đảm để đi đến gần một ngôi nhà mà con đã thấy ánh sáng.
Con
quyết định đi vào và gặp một người phụ nữ. Con yêu cầu cô ấy chỉ cho
con làm cách nào để có thể thoát ra được ra được từ đây. Cô cho biết:
“Bạn sẽ không thể rời khỏi đây cho đến sáng sớm khi phà đến để đón
khách, và thậm chí nếu tôi có chỉ đường cho bạn, bạn vẫn cần một người
địa phương để hướng dẫn, nếu không bạn sẽ bị lạc. Vì vậy, cô cho phép
con núp và ẩn mình bên trong nhà của cô cho đến khi buổi sáng.
Con
không dám nói với cô ấy rằng: Con đã có ý định vượt biên và muốn trốn
khỏi nơi này, bởi vì con rất sợ hãi, nhưng con tin, cô ấy đã biết từ
cách ăn mặc và quần áo lấm lem và bẩn thỉu và đã bị ướt đẫm, nhìn con
chắc chắn không phải là một trong những người dân địa phương. Tuy nhiên,
cô ấy đã đối xử rất tốt với con.
Sáng
hôm sau, cô đưa con đến bến phà. Chúng con đi bộ quanh làng, sử dụng
tất cả các con đường tắt, để tránh bị người dân ở đây nhìn thấy. Cuối
cùng, con đã đến phà, con bước lên trên tàu và tàu khởi hành.
Trước
khi con rời bến phà, con đã cởi cái vòng đeo tay bằng vàng của con và
đưa cho cô ấy như một cách để nói lên lời cảm ơn cô ta, vì cô đã cứu
mạng con. Cô không muốn chấp nhận nó, nhưng con cứ khăng khăng nài ép
cô nhận cho, vì vậy cuối cùng cô cũng đã chấp nhận.
Khi
con về đến nhà, gia đình con đã rất vui mừng khi thấy con còn sống và
không bị bắt bởi Công An. Gia đình con kể cho con biết là hai người bạn
khác của con, người mà đã nhảy xuống nước với con. Một người thì bị bắt,
còn người kia đã bị chết đuối, những người còn lại trên tàu đều bị bắt
và tống giam vào nhà tù.
Sau
khi nghe điều này, con nhận ra qủa thực mình qúa may mắn và con xác tín
rằng: chính Đức Mẹ đã đáp lại lời cầu nguyện của con và chính Mẹ đã
thực sự cứu con.
Đó
là lý do tại sao bây giờ, con luôn luôn tri ân và cảm tạ Mẹ, cũng như
Thiên Chúa toàn năng đã bảo vệ và gìn giữ con, giúp con vượt qua tất cả
các mối nguy hiểm và gian nan trong cuộc sống. Con đã hứa với bản thân
rằng: con sẽ sống một cuộc sống tốt và hữu ích cho mọi người, để con có
thể bù đắp phần nào cho cân xứng tình thương mến và lòng bác aí của
những vị ân nhân đã làm ơn cho con.
Trong
lúc nghe anh bạn thân thuật lại câu chuyện mà tôi vừa kể cho quý ông bà
và anh chị em nghe. Tôi nhận ra một cách tỏ tường là anh ấy có một lòng
tin yêu Đức Mẹ một cách mạnh mẽ và sốt sắng, đó là, tình yêu mà anh đã
dành cho Mẹ Maria được thể hiện qua tình cảm và lời nói của Anh. Trong
cuộc đời linh mục của tôi, tính đến nay đã ngoài 21 năm, và tôi cũng đã
tiếp xúc và gặp gỡ rất nhiều người giáo dân và cũng được họ kể cho tôi
nghe nhiều sự việc lạ lùng và vĩ đại mà TC hay Đức Mẹ đã thực hiện cho
họ, nhưng tôi phải công nhận một điều là anh bạn thân của tôi, có một
đời sống rất thánh thiện và anh có một niềm tin tưởng gần như là tuyệt
đối vào Đức Mẹ. Anh đã thể hiện đời sống đức tin của mình qua các việc
làm cụ thể để diễn tả niềm tin của mình, và đồng thời cũng nói lên tấm
lòng yêu mến TC và Mẹ Maria. Anh ta rất xứng đáng manh danh hiệu là một
người Kitô hữu.
Câu
chuyện việc Đức Mẹ đã cứu anh bạn tôi trong hành trình vượt biên, và cả
những câu chuyện riêng của những người khác, bao gồm của tôi trong đó,
đã tái khẳng định bằng lời tuyên bố hùng hồn và xác quyết của Thánh
Bênađô ( St. Bernard). Lạy Mẹ rất yêu dấu, chưa từng nghe có người nào
chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm
lời.
Vì
vậy, chúng ta hãy tín thác và đặt hết mọi tin tưởng ở nơi Mẹ. Tin rằng
Mẹ luôn luôn lắng nghe và ban cho chúng ta những gì mà chúng ta khấn xin
Mẹ, nếu như điều ấy thực sự hữu ích cho phần rỗi của chúng ta.
Để
kết thúc phần trình bày, tôi muốn gởi đến quý vị lời thố lộ của Đức cố
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, như là một lời mời gọi và động viên toàn thể
chúng ta. Ngài nói: “Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện yêu thích
của tôi. Một lời cầu nguyện tuyệt diệu! Tuyệt diệu trong sự đơn giản và
trong chiều sâu của nó.”
Kính
chúc cho quý ông bà và anh chị em biết tái khám phá ra sự hữu hiệu và
sức mạnh vô song của việc cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi, đặc biệt là
trong tháng 10 này.
Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
…………………………………………………………..
1
. On March 26, 1726, Benedict XIII made obligatory the lessons of the
Roman breviary for the Matins of the Feast of October 7th, teaching that
Mary recommended to St. Dominic the preaching of the Rosary to the
people, giving him to understand that this prayer would be an
exceptionally efficacious succor against heresies and vices. Cited by
Fr. Antonin Danzas, O. P., in his work Etudes sur les tempsprimitifs de
I’Ordre de SaintDominique (Paris: Oudin Freres, 1877), vol. 4, p. 59
2 . Phần trích dẫn từ cuộc trò chuyện giữa Sr. Lucia và Fr. Fuentes, vào ngày 26 tháng 12 năm 1957.
3 . See An Epic: From Marian Salutations to the Ave Maria.
4
. Lời kinh Salve Regina do Thầy Hermann der Lahme, Dòng Bênêđíctô (+
1054), người Đức viết ra bằng tiếng latinh ở Tu viện Reichenau vùng
Bodensee miền Nam nước Đức. Lời kinh Salve Regina do Thầy Hermann viết
ra thành chữ, thoát ra từ tận sâu thẳm tâm hồn của một đời sống chịu
đựng tàn tật về thân xác cũng như yếu đuối giới hạn về trí khôn tinh
thần. Thầy Hermann đã có cảm nghiệm này từ chính nơi đời sống riêng của
mình về sự yếu hèn của khiếm khuyết, của tật nguyền nơi thân thể. Nên
qua đó thầy khao khát mong ước một đời sống tốt đẹp hơn, một đời sống
vĩnh cửu. Điều khao khát mong ước đó, thầy đặt niềm hy vọng nơi Đức Mẹ
Maria, Đấng là Trạng sư bầu chữa cho mình trước ngai tòa Chúa. Lời kinh
Salve Regina đã gợi hứng cho rất nhiều nhạc sĩ từ xưa đến nay viết thành
những tấu khúc lớn nhỏ khác nhau và rất danh tiếng, nhất là vào thời
Trung Cổ cho đến thời cận đại như Henri Dumont, G.F. Händel, Franz
Liszt, Franz Schubert, Pierre de la Ruy… Vào thế kỷ 18, Kinh Lạy Nữ
Vương đã trở thành trọng tâm của cuốn sách Thánh Mẫu học của Thánh
Alphonsô Liguori. Vị sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế – sau này được Giáo Hội
phong làm vị Thánh Tiến sĩ Hội thánh. Xem Lm. Đa Minh Nguyễn Ngọc Long,
Lời kinh “Salve Regina – Lạy Nữ Vương.” Thứ 6, ngày 21/08/2015
http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20150821/31789 (Truy cập, ngày
2.10.2015).
5
. Phỏng dịch sang tiềng Việt là KÍNH CHÀO MẸ LÀ NGÔI SAO BIỂN, hay cũng
có thể hiểu Mẹ là ngôi sao đại dương. Lời Hứa Cho Những Ai Hát Kinh
‘Ave Maria Stella’ Trong một cuộc nỗi loạn ở Roma, một đám đông kéo đến
nơi nhà của Thánh Nữ Bridget; người trưởng toán đòi thiêu sống Thánh
Bridget. Bà cầu nguyện cùng Chúa xem bà có nên lẩn trốn hay không. Chúa
khuyên bà nên ở lại: “Họ âm mưu giết con nhưng con sẽ không sao cả.
Quyền năng của Ta sẽ phá vỡ ác tâm của kẻ thù con: Nếu họ đóng đinh Ta
thì cũng vì Ta cho phép họ”. Ðức Mẹ thêm: “Hãy hợp ca bài AVE MARIS
STELLA thì Mẹ sẽ gìn giữ con khỏi mọi nguy hiểm.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét