Ngày 15
tháng 12 vừa qua Phòng Báo Chí Toà Thánh đã tổ chức cuộc họp báo giới
thiệu Sứ điệp ĐTC Phanxicô gửi Ngày Hoà Bình Thế Giới 2016 về đề tài
“Hãy chiến thắng dửng dưng và chinh phục hoà bình”. Sứ điệp đề ngày mùng
8 tháng 12 gồm 8 đoạn. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung
sứ điệp. Mở đầu sứ điệp ĐTC viết:
1. “Thiên
Chúa không dửng dưng! Đối với Thiên Chúa Nhân loại quan trọng, Thiên
Chúa không bỏ rơi nó!
Bắt đầu năm mới với xác tín sâu thẳm này của mình tôi muốn kèm theo các lời cầu chúc phước lành và hoà bình tràn đầy, trong dấu chỉ của niềm hy vọng, cho tương lai của từng người nam nữ, của từng gia đình, dân tộc và quốc gia trên thế giới, cũng như cho các Quốc Trưởng và Chính Quyền và Giới Lãnh Đạo tôn giáo. Thật thế, chúng ta không mất hy vọng rằng năm 2016 trông thấy chúng ta tất cả dấn thân một cách cương quyết và mạnh mẽ, trên mọi bình diện, để thực hiện công lý và hoạt động cho hoà bình. Phải, hoà bình là món quà của Thiên Chúa và là công trình của con người. Hoà bình là ơn của Thiên Chúa, nhưng được ủy thác cho tất cả mọi người nam nữ được mời gọi hiện thực nó.
Bắt đầu năm mới với xác tín sâu thẳm này của mình tôi muốn kèm theo các lời cầu chúc phước lành và hoà bình tràn đầy, trong dấu chỉ của niềm hy vọng, cho tương lai của từng người nam nữ, của từng gia đình, dân tộc và quốc gia trên thế giới, cũng như cho các Quốc Trưởng và Chính Quyền và Giới Lãnh Đạo tôn giáo. Thật thế, chúng ta không mất hy vọng rằng năm 2016 trông thấy chúng ta tất cả dấn thân một cách cương quyết và mạnh mẽ, trên mọi bình diện, để thực hiện công lý và hoạt động cho hoà bình. Phải, hoà bình là món quà của Thiên Chúa và là công trình của con người. Hoà bình là ơn của Thiên Chúa, nhưng được ủy thác cho tất cả mọi người nam nữ được mời gọi hiện thực nó.
Duy trì các lý do của niềm hy vọng
2. Các
chiến tranh và hành động khủng bố, với các hậu quả thê thảm của chúng,
các vụ bắt cóc người, các bách hại vì các lý do chủng tộc hay tôn giáo,
các lạm dụng đã ghi dấu từ đầu tới cuối năm vừa qua gia tăng một cách
đau đớn tại nhiều vùng trên thế giới, đến độ có các hình thể có thể gọi
là “một đệ tam thế chiến từng mảnh”. Nhưng cũng có vài biến cố của các
năm qua và của năm vừa qua mời gọi tôi, trong viễn tượng của năm mới,
canh tân lời khích lệ đừng mất hy vọng nơi khả năng của con người, với
ơn của Thiên Chúa, vượt thắng sự dữ và không buông xuôi cho thái độ chịu
trận và thờ ơ. Các biến cố mà tôi muốn nhắc đến diễn tả khả năng của
nhân loại hoạt động trong tình liên đới, vượt ngoài các lợi lộc cá nhân,
sự vô cảm và dửng dưng trước các tình trạng nguy kịch.
Trong số
các biến cố ấy tôi muốn nhắc tới nỗ lực tạo thuận tiện cho cuộc gặp gỡ
của giới lãnh đạo thế giới trong bối cảnh của hội nghị COP 21, nhằm tìm
ra các con đường mới giúp đương đầu với các thay đổi khí hậu và cứu vãn
sức khỏe của Trái Đất, căn nhà chung của chúng ta. Và điều này quy chiếu
về hai biến cố trước đó trên bình diện toàn cầu: đó là Hội nghị thượng
đỉnh tại Addis Abeba nhằm quyên góp ngân qũy cho việc phát triển có thể
chịu đựng nổi của thế giới; và việc Liên Hiệp Quốc chấp nhận Lịch trình
2030 cho việc phát triển có thể chịu đựng nổi, nhằm bảo đảm cho mọi
người dân, nhất là cho các dân tộc nghèo của hành tinh, từ nay cho tới
đó có một cuộc sống xứng đáng hơn.
Năm 2015
đã là một năm đặc biệt đối với Giáo Hội, cũng bởi vì Giáo Hội kỷ niệm
50 năm công bố hai tài liệu của Công Đồng Chung Vaticăng II diễn tả một
cách rất hùng hồn ý thức liên đới của Giáo Hội đối với thế giới. Khi
khai mạc Công Đồng ĐGH Gioan XXIII muốn mở toang các cửa sổ của Giáo Hội
để giữa Giáo Hội và thế giới có sự truyền thông rộng mở hơn. Hai tài
liệu: Nostra aetate và Gaudium et Spes, là các diễn tả biểu hiệu cho
tương quan mới của sự đối thoại, tình liên đới và đồng hành mà Giáo Hội
cố ý đưa vào bên trong nhân loại. Trong Tuyên ngôn Nostra aetate Giáo
Hội được mời gọi rộng mở cho việc đối thoại với các tôn giáo không kitô.
Trong Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, từ lúc “các niềm vui, các hy
vọng, buồn sầu và lo lắng của con người ngày nay, của người nghèo và
nhất là của tất cả những người đau khổ, cũng là các niềm vui và các hy
vọng, các buồn sầu và các âu lo của các môn đệ Chúa Kitô” (GS, 1), thì
Giáo Hội đã ước mong thiết lập một cuộc đối thoại với gia đình nhân loại
liên quan tới các vấn đề của thế giới, như dấu chỉ của tình liên đới và
sự trìu mến tôn trọng (GS, 3).
Cũng
trong viễn tượng này với Năm Thánh Lòng Thương Xót tôi muốn mời gọi Giáo
Hội cầu nguyện và hoạt động để mọi tín hữu kitô có thể có một con tim
chín mùi khiêm nhường và từ bi, có khả năng loan báo và làm chứng cho
lòng thương xót, “tha thứ và cho đi”, rộng mở “cho những ai sống trong
các vùng ngoại biên rải rác nhất của cuộc sống, mà thế giới tân tiến
thường tạo ra một cách thê thảm”, không “rơi vào sự dửng dưng hạ nhục,
không rơi vào thái độ quen nhờn làm tê liệt tâm trí và ngăn cản khám phá
ra sự mới mẻ, không rơi vào thái độ vô liêm sỉ tàn phá.”
(Misericordiae vultus, 14-15)
ĐTC viết
tiếp trong sứ điệp: Có nhiều lý do giúp tin vào khả năng của nhân loại
cùng nhau hành động trong tình liên đới, trong việc nhận ra sự nối kết
giữa nhau và tuỳ thuộc nhau, bằng cách lo lắng cho các thành phần yếu
đuối nhất, và cứu vãn thiện ích chung. Thái độ liên đới đồng trách nhiệm
này là gốc rễ ơn gọi nền tảng cho tình huynh đệ và cho cuộc sống chung.
Phẩm giá và các tương quan liên bản vị khiến cho chúng ta là người,
được Thiên Chúa muốn là hình ảnh của Ngài và giống Ngài. Như là các thụ
tạo được phú bẩm phẩm giá bất khả nhượng, chúng ta hiện hữu trong tương
quan với các anh chị em khác, mà chúng ta có trách nhiệm đối với họ và
chúng ta hành động trong tình liên đới với họ. Bên ngoài tương quan này,
chúng ta sẽ ít là người hơn. Chính vì thế sự dửng dưng là một đe dọa
đối với gia đình nhân loại. Trong khi chúng ta bước tới một năm mới, tôi
muốn kêu mời tất cả mọi người thừa nhận sự kiện này, để chiến thắng
dửng dưng và chinh phục hoà bình.
Vài hình thức dửng dưng
3. Chắc
chắn rằng thái độ dửng dưng, của người đóng kín con tim để không chú ý
tới tha nhân, của người nhắm mắt để không trông thấy điều chung quanh,
hay tránh né để không bị dụng chạm bởi các vấn đề của người khác, định
tính một loại người khá phổ biến và hiện diện trong mọi thời đại của
lịch sử. Tuy nhiên, ngày nay nó đã vĩnh viễn vượt quá lãnh vực cá nhân
để mang chiều kích toàn cầu, và tạo ra hiện tượng của “việc toàn cầu hóa
sự dửng dưng”.
Hình thái
thứ nhất của sự thờ ơ trong xã hội con người là sự dửng dưng đối với
Thiên Chúa, từ đó cũng nảy sinh ra sự dửng dưng đối với tha nhân và với
thụ tạo. Đây là một trong các hậu quả trầm trọng nhất của một chủ thuyết
nhân bản giả dối, và của chủ thuyết duy vật thực tiễn, trộn lẫn với một
tư tưởng duy tương đối và duy hư vô. Con người nghĩ rằng nó là tác giả
của chính mình, của cuộc sống mình và của xã hội; nó cảm thấy tự đủ và
không chỉ nhắm lấy mình thay thế Thiên Chúa, mà còn sống không cần tới
Thiên Chúa nữa; hậu quả, nó nghĩ mình không nợ ai gì cả, ngoại trừ chính
nó, và nó yêu sách chỉ có các quyền lợi mà thôi (Caritas in veritate.
43). Chống lại sự tự hiểu biết sai lầm này của con người, ĐGH Biển Đức
XVI nhắc nhở rằng: không phải con người cũng không phải sự phát triển
của nó có khả năng tự ban cho nó ý nghĩa cuối cùng của nó (Caritas in
veritate, 16) ; và trước ngài Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cũng đã khẳng
định rằng “không có chủ thuyết nhân bản đích thật nào cống hiến ý tưởng
đích thật của cuộc sống con người, nếu không rộng mở cho Đấng Tuyệt
Đối” (Populorum progresio, 42).
Sự dửng
dưng đối với tha nhân mang nhiều bộ mặt khác nhau. Có người được thông
tin rõ ràng, lắng nghe radio, đọc báo chí hay coi các chương trình
truyền hình, nhưng làm một cách hâm hẩm, hầu như trong một điều kiện
quen thuộc: những người này biết một cách mù mờ các thảm cảnh khiến cho
nhân loại khổ đau, nhưng họ không cảm thấy bị lôi cuốn, họ không sống sự
cảm thương. Đây là thái độ của người biết, nhưng có cái nhìn, tư tưởng
và hành động hướng tới chính mình. Rất tiếc chúng ta phải ghi nhận rằng
việc gia tăng các tin tức, chính trong thời đại chúng ta, tự nó không có
nghĩa là gia tăng sự chú ý tới các vấn đề, nếu nó không được đi kèm bởi
một sự rộng mở lương tâm trong nghĩa liên đới (Caritas in veritate,
19). Trái lại, nó có thể bao gồm một sự bão hoà làm tê liệt, và trong
một mức độ nào đó, tương đối hoá tầm nghiêm trọng của các vấn đề. “Có
vài người, một cách đơn sơ, lại vui mừng đổ lỗi cho người nghèo và các
nước nghèo về các sự dữ của họ, với các tổng quát hoá không xóa bỏ
được, và họ yêu sách tìm ra giải pháp trong một việc “giáo dục” trấn an
và biến họ trở thành những người bị thuần hoá và vô hại. Điều này lại
càng trở nên nhức nhối hơn, nếu các người bị loại trừ trông thấy bênh
ung thư xã hội gia tăng là sự thối nát đâm rễ sâu trong nhiều nuớc – nơi
các chính quyền, trong giới doanh thương và trong các cơ cấu – bất cứ ý
thức hệ chính trị nào của giới lãnh đạo” (Evangelii gaudium, 60).
Trong các
trường hợp khác, sự dửng dưng biểu lộ ra như là việc thiếu chú ý đối
với thực tại chung quanh, đặc biệt đối với thực tại ở xa. Có vài người
ưa thích không tìm kiếm, không hỏi thăm tin tức, và sống sự phong phú và
thoải mái của họ, điếc trước tiếng kêu than của nhân loại khổ đau. Hầu
như không nhận ra điều đó, chúng ta đã trở nên không có khả năng cảm
thương những người khác, đối với các thảm cảnh của họ, chúng ta không
chú ý lo lắng cho họ, làm như thể điều xảy ra cho họ là một trách nhiệm
xa lạ đối với chúng ta, không thuộc bổn phận của chúng ta (Ibid. 54).
“Khi chúng ta khỏe mạnh và cảm thấy thoải mái, chắc chắn chúng ta quên
những người khác (đó là điều mà Thiên Chúa Cha không bao giờ làm), chúng
ta không chú ý tới các vấn đề của họ, các khổ đau, và các bất công họ
phải chịu… Khi đó con tim của chúng ta rơi vào sự dửng dưng: trong khi
tôi tương đối khoẻ mạnh và thoải mái, tôi quên những người không khỏe
mạnh” (Sứ điệp mùa chay 2015).
Khi sống
trong một căn nhà chung, chúng ta không thể không tự hỏi về tình trạng
sức khỏe của nó, như tôi đã làm trong Thông điệp Laudato si’. Sự ô nhiễm
các nguồn nước và không khí, việc khai thác rừng già không phân biệt,
việc tàn phá môi sinh thường là hậu quả của sự dửng dưng của con người
đối với những người khác, bởi vì tất cả có tương quan với nhau. Cũng như
thái độ hành xử của con người đối với thú vật ảnh hưởng trên các tương
quan của nó với người khác (Laudato si’, 92), để không nói đến việc ai
cho phép mình làm tại nơi khác điều họ không dám làm trong nhà họ (Ibid.
51).
Trong các
trường hợp này và các trường hợp khác nữa, sự dửng dưng tạo ra thái độ
khép kín và không dấn thân, và như thế nó kết thúc bằng việc góp phần
vào sự vắng bóng hoà bình với Thiên Chúa, vói tha nhân và với thụ tạo.
Hoà bình bị đe dọa bởi sự dửng dưng toàn cầu hóa
4. Sự
thờ ơ với Thiên Chúa vượt quá phạm vi nội tâm và tinh thần của bản vị
riêng rẽ, và xâm lấn phạm vi công cộng xã hội. Như ĐTC Biển Đức XVI đã
khẳng định, “có một nối kết mật thiết giữa việc vinh danh Thiên Chúa và
hoà bình của con người trên trái đất” (Diễn văn trrước ngoại giao đoàn
cạnh Toà Thánh 7-1-2013). Thật thế, “không có sự rộng mở siêu việt, con
người dễ dàng trở thành mồi cho chủ thuyết duy tương đối và rồi sẽ khó
mà hành động theo công lý và dấn thân cho hòa bình” (Ibidem.). Việc lãng
quên và khước từ Thiên Chúa dẫn đưa con người tới chỗ không thừa nhận
luật lệ cao hơn mình nữa, và chỉ lấy mình làm quy tắc, và chúng đã tạo
ra sự tàn ác và bạo lực vô chừng mực (Biển Đức XVI, Phát biểu ngày liên
tôn cầu nguyện cho công lý và hoà bình tại Assisi 27-10-2011).
Trên bình
diện ca nhân và cộng đoàn sự thờ ơ đối với tha nhân, con đẻ của sự dửng
dưng đối với Thiên Chúa, mang dáng vẻ của sự bất động và không dấn
thân, chúng dưỡng nuôi việc kéo dài các tình trạng bất công và mất quân
bình xã hội trầm trọng. Tới lượt mình chúng có thể dẫn đưa tới các xung
đột, hay trong mọi trường hợp, làm nảy sinh ra một bầu không khí bất
mãn có nguy cơ, mau hay chậm, bùng nổ thành bạo lực và bất an.
Trong
nghĩa này sự dửng dưng và không dấn thân như hậu quả tạo thành một thiếu
sót trầm trọng đối với bổn phận mà mỗi người phải đóng góp trong mức độ
các khả năng của mình và của vai trò mình có trong xã hội, cho công
ích, đặc biệt là cho nền hoà bình, là một trong các thiện ích quý báu
nhất của nhân loại (Evangelii gaudium, 217-237).
Thế rồi,
khi nó đụng chạm tới lãnh vực cơ cấu, thì sự dửng dưng đối với tha nhân,
phẩm giá, các quyền nền tảng và sự tự do của họ, cộng với một nền văn
hóa ghi đậm dấu lợi nhuận và chủ trương hưởng thụ, tạo thuận tiện và đôi
khi biện minh cho các hành động và chính sách rốt cuộc tạo ra các đe
dọa đối với hoà bình. Thái độ thờ ơ như thế cũng có thể đi đến chỗ biện
minh cho vài chính sách kinh tế đáng phiền trách, làm sinh sôi nay nở
các bất công, chia rẽ và bạo lực, nhằm đạt sự phong phú riêng tử hay của
quốc gia. Thật vậy, không hiếm các dự án kinh tế và chính trị của con
người nhắm mục đích chinh phục hay duy trì quyền bính và giầu sang, cả
khi có chà đạp các quyền lợi và các đòi buộc nền tảng của người khác đi
nữa. Khi các dân tộc thấy các quyền lợi sơ đẳng của họ như quyền có thực
phẩm, nước uống, được săn sóc sức khỏe, hay có công ăn việc làm, bị
khước từ, thì họ bị cám dỗ chiến hữu chúng bằng bạo lực (GS 59).
Ngoài ra,
sự thờ ơ đối với môi sinh thiên nhiên, bằng cách tạo thuận tiện cho
việc tàn phá rừng già, gây ô nhiễm và tạo ra các tai ương thiên nhiên,
khiến cho toàn các cộng đoàn bị nhổ khỏi gốc rễ môi sinh của họ, cách
cuỡng bách họ sống cảnh tạm bợ và bất ổn, tạo ra các nghèo túng mới, các
tình trạng bất công mới bởi các hậu qủa tàn hại liên quan tới an ninh
và hoà bình xã hội. Có biết bao nhiêu chiến tranh đã xảy ra và sẽ có
biết bao nhiêu chiến cuộc khác sẽ bùng nổ vì thiếu các tài nguyên hay để
đáp ứng đòi hỏi tài nguyên thiên nhiên vô độ?
Từ sự dửng dưng tới lòng thương xót: việc hoán cải con tim
5. Cách
đây một năm trong sứ điệp cho Ngày Hoà Bình Thế Giới “Không còn là nô lệ
nữa nhưng là anh em”, tôi đã nhắc tới hình ảnh kinh thánh đầu tiên của
tình huynh đệ nhân loại, đó là hình ảnh của Cain và Abel (x. St 4,1-6)
để lôi kéo sự chú ý trên sự kiện tình huynh đệ đầu tiên đã bị phản bội
như thế nào. Cain và Abel là anh em. Cả hai đều phát xuất từ cùng một
cung lòng, bình đẳng trong phẩm giá và được tạo dựng nên theo hình ảnh
và giống Thiên Chúa; nhưng tình anh em của họ bị bẻ gẫy. “Cain không
những không chịu được em mình là Abel, mà còn giết em vì ghen tương
nữa” (Sứ điệp Ngày Hoà Bình Thế Giới 2015, 2). Khi đó việc giết em trở
thành hình thức của sự phản bội, và việc khưóc từ tình huynh đệ của Abel
từ phiá Cain là sự đổ bể đầu tiên trong các tương quan gia đình của
tình huynh đệ, liên đới và tôn trọng lẫn nhau.
Khi đó,
Thiên Chúa can thiệp để mời gọi tinh thần trách nhiệm của con người đối
với người đồng loại, y như Ngài đã làm khi Ađam và Evà, ông bà nguyên
tổ. đã bẻ gẫy sự hiệp thông với Đấng Tạo Hóa. “Khi đó Chúa nói với Cain:
“Abel em ngươi đâu rồi?”. Cain thưa: “Con không biết. Con là người canh
giữ em con hay sao?”. Chúa phán: “Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất
tiếng máu của em ngươi đang kêu tới Ta” (St 4,9-10).
Cain nói
rằng mình không biết điều gì đã xảy ra cho em mình, rằng mình không phải
là người canh giữ em. Anh ta không cảm thấy có trách nhiệm đối với sự
sống của em, đối với số phận của em. Anh không cảm thấy bị liên lụy. Anh
dửng dưng đối vói em mình, mặc dù họ được nối kết với nhau bởi nguồn
gốc chung. Thật buồn biết bao! Thật là thảm cảnh huynh đệ, gia đình và
nhân loại! Đó đã là biểu lộ đầu tiên của sự thờ ơ giữa anh em với nhau.
Thiên Chúa, trái lại, không thờ ơ: máu của Abel có gia trị lớn dưới mắt
Ngài và Ngài đòi Cain phải trả lẽ. Như thế Thiên Chúa tự vén mở ngay từ
đầu như là Đấng chú ý tới số phận của con người. Sau này khi con cái
Israel sống kiếp nô lệ bên Ai Cập, Thiên Chúa can thiệp và Ngài đã nghe
tiếng họ kêu than vì các giám thị; “Thật thế, Ta biết các đau khổ của
ngươi. Ta đã xuống để giải phóng ngươi khỏi bàn tay của Ai Cập và làm
cho ngươi ra khỏi xứ sở ấy để đi về một xứ sở xinh đẹp và rộng rãi, về
một xứ sở nơi chảy sữa và mật ong” (Xh 3,7-8). Thật là quan trọng ghi
nhận các động từ miêu tả sự can thiệp của Thiên Chúa: Ngài quan sát,
lắng nghe, hiểu biết, xuống, giải thoát. Thiên Chúa không dửng dưng.
Ngài chú ý và hành động.
Cũng thế,
trong Đức Giêsu Con Ngài, Thiên Chúa đã xuống giữa loài người, đã nhập
thể và tỏ ra liên đới với nhân loại: “trưởng tử giữa nhiều em” (Rm
8,29). Ngài đã không hài lòng dậy dỗ dân chúng, mà cũng lo lắng cho họ
nữa, đặc biệt khi trông thấy họ đói (x. Mc 6,34-44) hay không có công ăn
việc làm (x. Mt 20,3). Cái nhìn của Ngài không chỉ hướng tới con người,
mà cũng hướng tới cá biển, chim trời, cây cối lớn nhỏ; Ngài ôm trọn
toàn thụ tạo trong vòng tay. Ngài trông thấy, chắc chắn rồi, nhưng không
chỉ hạn chế vào việc này, bởi vì Ngài đụng chạm tới con người, nói
chuyện với họ, hoạt động cho họ và làm ích cho người túng thiếu. Nhưng
không chỉ như thế, Ngài còn để cho mình xúc động và khóc nữa (x. Ga
11,33-44). Và ngài hành động để chấm dứt sự khổ đau, buồn sầu, bần cùng
và cái chết.
Chúa
Giêsu dậy chúng ta thương xót như Thiên Chúa Cha (x. Lc 6,36). Trong dụ
ngôn người Samaritano nhân hậu (x. Lc 10,29-37) Ngài tố cáo việc bỏ sót
cứu giúp trước sự cấp thiết của tha nhân: “ông thấy và đi qua” (x. Lc
10,31.32). Đồng thời, qua thí dụ này, Chúa mời gọi các thính giả của
Ngài, đặc biệt là các môn đệ của Ngài, học dừng lại trước các khổ đau
của thế giới này để làm vơi nhẹ chúng, dừng lại trước các vết thương của
người khác để chữa trị chúng, với các phương tiện họ có, bắt đầu từ
thời gian, mặc dù có biết bao bận rộn. Thật vậy, sự dửng dưng thường tìm
cớ: trong việc tuân giữ các điều luật nghi lễ, trong hàng đống việc
phải làm, trong các đối kháng khiến cho chúng ta xa nhau, trong các
thành kiến đủ loại ngăn cản chúng ta đến gần nhau.
Lòng
thương xót là con tim của Thiên Chúa. Vì thế nó cũng phải là con tim của
tất cả những ai tự nhận mình là chi thể của đại gia đình duy nhất của
các con cái Ngài; một con tim dấn thân mạnh mẽ đập nhịp phẩm giá con
người tại khắp mọi nơi phản ánh gương mặt của Thiên Chúa nơi các thụ tạo
của Ngài. Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta: tình yêu đối với tha nhân –
khách ngoại kiều, người đau yếu, các tù nhân, người không nhà, cho tới
cả kẻ thù, là thước đo Thiên Chúa dùng để phán xử các hành động của
chúng ta. Số phận đời đời của chúng ta tuỳ thuộc vào đó. Thật không đáng
ngạc nhiên, khi thánh Phaolô tông đồ mời gọi các kitô hữu Roma vui với
người vui, khóc với người khóc (x. Rm 12,15) hay khuyên tín hữu Côrintô
tổ chức các cuộc lạc quyên như dấu chỉ tình liên đới với các chi thể khổ
đau của Giáo Hội (x. 1 Cr 16,2-3). Còn thánh Gioan thì viết: “Nếu ai có
của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động
lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy
được?”(1 Ga 3,17; x. Gc 2,15-16).
Đo đó tại
sao lại là điều “định đoạt đối với Giáo Hội và tính cách đáng tin cậy
của lời loan báo, việc Giáo Hội sống và đích thân làm chứng cho lòng
thương xót. Ngôn ngữ và các cử chỉ của Giáo Hội phải thông truyền lòng
thương xót để vào thấu trái tim con người và khiêu khích họ tìm ra con
đường trở về với Thiên Chúa Cha. Sự thật đầu tiên của Giáo Hội là tình
yêu của Chúa Kitô. Giáo Hội là tôi tớ và trung gian của tình yêu ấy nơi
con người, tình yêu đi tới chỗ tha thứ và trao ban chính mình. Vì thế,
nơi đâu có Giáo Hội hiện diện, thì ở đó lòng thương xót của Thiên Chúa
Cha phải hiển nhiên. Nghĩa là trong các giáo xứ, cộng đoàn, hiệp hội và
phong trào của chúng ta, bất cứ nơi nào có các kitô hữu, thì bất cứ ai
cũng phải tìm được một ốc đảo của lòng thương xót (Misericordiae vulnus,
12).
Như vậy,
cả chúng ta nữa cũng được mời gọi biến tình yêu, lòng trắc ẩn, thương
xót và tình liên đới trở thành chương trình sống, trở thành một kiểu
hành xử trong các tương quan với nhau (Ibid., 13). Điều này đòi hỏi
việc hoán cải con tim: nghĩa là ơn của Thiên Chúa biến đổi con tim bằng
đá của chúng ta thành con tim bằng thịt (x. Ed 36,26), có khả năng rộng
mở cho tha nhân với tình liên đới đích thật. Thật thế, tình liên đới là
điều nhiều hơn một “tình cảm của lòng trắc ẩn mơ hồ hay một mềm yếu hời
hợt đối với các khổ đau của biết bao người gần xa (Sollecitudo rei
socialis, 38). Tình liên đới là “sự quyết tâm vững vàng và kiên trì dấn
thần cho công ích: hay cho hạnh phúc của tất cả mọi người và từng
người, bởi vì tất cả chúng ta đều thực sự có trách nhiệm đối với mọi
người” (Ibid.,), bởi vì sự trắc ẩn nảy sinh từ tình huynh đệ.
Được hiểu
như thế, tình liên đới là thái độ luân lý đạo đức và xã hội, đáp trả
lại một cách tốt nhất ý thức của lương tâm về các vết thương của thời
đại chúng ta và về sự tuỳ thuộc lẫn nhau luôn luôn hiện hữu, đặc biệt
trong một thế giới toàn cầu hóa, giữa cuộc sống của từng người và của
cộng đoàn trong một nơi xác định và cuộc sống của các người nam nữ khác
trên thế giới (Ibid.,).
Thăng tiến một nền văn hóa liên đới và thuơng xót để chiến thắng sự dửng dưng
6. Tình
liên đới như nhân đức luân lý và thái độ xã hội, hoa trái của sự hoán
cải cá nhân, đòi buộc một dấn thân từ phía đông đảo các chủ thể có trách
nhiệm trong lãnh vực giáo dục và đào tạo.
Tư tưởng
đầu tiên của tôi hướng tới các gia đình được mời gọi cho một sứ mệnh
giáo dục đầu tiên và không thể khước từ được. Các gia đình là nơi chốn
đầu tiên, trong đó người ta sống các giá trị của tình yêu thương, tình
huynh đệ, việc chung sống, chia sẻ, sự chú ý và săn sóc người khác. Các
gia đình cũng là môi trường đặc tuyển cho việc thông truyền đức tin, bắt
đầu từ các cử chỉ đạo đức đơn sơ nhất, mà các bà mẹ dậy cho con cái
(Ibid.,).
Liên quan
tới các nhà giáo dục và đào tạo, trong trường học hay các trung tâm quy
tụ khác của trẻ em và người trẻ, có bổn phận giáo dục chúng, họ được
mời gọi ý thức rằng trách nhiệm của họ liên quan tới các chiều kích luân
lý, tinh thần và xã hội của con người. Các giá trị của sự tự do, lòng
tôn trọng lẫn nhau và tình liên đới có thể được thông truyền ngay từ
tuổi còn thơ. Khi hướng tới các vị hữu trách của các cơ cấu có nhiệm vụ
giáo dục, Đức Biển Đức XVI đã khẳng định rằng: “Mỗi một môi trường giáo
dục có thể là nơi của sự rộng mở cho siêu việt và tha nhân: nơi của đối
thoại, của sức mạnh nối kết và lắng nghe, trong đó người trẻ cảm thấy
được đánh giá trong các tiềm năng và phong phú nội tâm, và học qúy
chuộng các anh chị em khác. Ước chi nó có thể dậy cho biết nếm hưởng
niềm vui nảy sinh từ việc từng ngày sống tình bác ái và trắc ẩn đối với
người lân cận, và từ việc tham dự tích cực vào việc xây dựng một xã hội
nhân bản và huynh đệ hơn” (Sứ điệp cho Ngày Hoà Bình Thế Giới 2012, 2).
Cả các
người hoạt động văn hóa và truyền thông xã hội cũng có trách nhiệm trong
lãnh vực giáo dục và đào tạo, đặc biệt trong các xã hội ngày nay, trong
đó việc sử dụng các phương tiện thông tin và truyền thông ngày càng phổ
biến. Trước hết họ có nhiệm vụ phục vụ sự thật chứ không phải phục vụ
các lợi lộc riêng tư. Thật thế, các phương tiện truyền thông “không chỉ
thông tin, mà cũng đào tạo tinh thần các đối tượng của chúng nữa, và vì
vậy có thể góp phần đáng kể vào việc giáo dục người trẻ. Thật là quan
trọng chú ý tới tương quan rất chặt chẽ giữa giáo dục và truyền thông:
thật thế, giáo dục đến qua truyền thông, nó ảnh hưởng một cách tích cực
hay tiêu cực trên việc đào tạo con người” (Ibid.,). Các nhân viên văn
hóa và truyền thông cũng phải canh chừng để kiểu tiếp nhận và phổ biến
các tin tức của họ luôn được hợp pháp trên bình diện pháp lý và luân lý.
Hoà bình: hoa trái của một nền văn hoá liên đới, thương xót và trắc ẩn
7. Ý thức
được sự đe dọa của một việc toàn cầu hóa sự dửng dưng, chúng ta không
thể không thừa nhận rằng, trong bối cảnh như miêu tả trên đây, cũng có
nhiều sáng kiến và hoạt động tích cực làm chứng cho sự trắc ẩn, lòng
thương xót và tình liên đới mà con người có khả năng làm được. Tôi muốn
nhắc tới vài thí dụ dấn thân đáng ca ngợi chứng minh cho thấy làm sao
mỗi người có thể chiến thắng sự thờ ơ, khi lựa chọn không rời cái nhìn
khỏi người lân cận của mình, và chúng có thể trở thành các thực hành tốt
trên con đường tiến tới một xã hội nhân bản hơn.
Có biết
bao nhiêu tổ chức phi chính quyền và các nhóm bác ái, bên trong cũng như
bên ngoài Giáo Hội, mà các thành viên, trong các dịp dịch tễ, thiên tai
hay xung khắc vũ trang, đương đầu với các mệt nhọc và nguy hiểm để săn
sóc những người bị thương và các bệnh nhân, và để chôn cất các người đã
chết. Bên cạnh họ tôi muối nhắc đến những người và những hiệp hội cứu
giúp các người di cư băng qua các sa mạc và biển cả để đi tìm các điều
kiện sống tốt đẹp hơn. Các hoạt động này là các công tác của lòng thương
xót thể lý và tinh thần, dựa trên đó chúng ta sẽ bị phán xử vào cuối
cuộc sống của mình.
Tôi cũng
nghĩ tới các nhà báo và các chuyên viên chụp hình thông tin tức cho dư
luận công cộng liên quan tới các tình hình khó khăn gọi hỏi lương tâm,
và tất cả những người dấn thân bảo vệ các quyền con người, bảo vệ các
phụ nữ và trẻ em, và tất cả những ai sống trong các điều kiện dễ bị tổn
thương hơn. Giữa những người đó cũng có các linh mục và thừa sai, như là
các mục tử nhân lành, các vị ở lại bên cạnh tín hữu và nâng đỡ họ mặc
cho các hiểm nguy và khó khăn, đặc biệt trong các cuộc xung đột vũ
trang.
Thế rồi
còn có biết bao nhiêu gia đình dấn thân một cách cụ thể để giáo dục con
cái họ “đi ngược dòng”, sống các giá trị của tình liên đới, sự cảm
thương và tình huynh đệ, với giá của biết bao nhiêu hy sinh, tuy phải
sống giữa biết bao khó khăn về công ăn việc làm và xã hội. Biết bao
nhiêu gia đình rộng mở con tim và cửa nhà cho nhũng ai sống trong cảnh
thiếu thốn, như các người tỵ nạn và di cư! Tôi muốn cám ơn một cách đặc
biệt tất cả các người, các gia đình, các giáo xứ, các cộng đoàn dòng tu,
các đan viện và các trung tâm hành hương đã mau mắn đáp trả lời tôi kêu
gọi tiếp đón một gia đình tỵ nạn (Kinh Truyền Tin 6-9-2015).
Sau cùng,
tôi muốn nhắc tới các người trẻ hiệp nhất với nhau để thực hiện các dự
án liên đới, và tất cả những người mở rộng đôi tay trợ giúp người bên
cạnh thiếu thốn: trong các thành phố, trong quê hương mình hay trong các
vùng miền khác trên thế giới. Tôi muốn cám ơn và khích lệ tất cả những
ai dấn thân trong các hành động loại này, cả khi họ không được quảng
cáo: sự đói khát công lý của họ sẽ được no thoả, lòng thương xót của họ
sẽ khiến cho họ tìm được xót thương và như là các tác nhân hoà bình, họ
sẽ được gọi là con cái của Thiên Chúa (x. Mt 5,6-9).
Hoà bình trong dấu chỉ của Năm Thánh Lòng Thương Xót
8. Trong
tinh thần của Năm Thánh Lòng Thương Xót, mỗi người được mời gọi nhận ra
sự thờ ơ được biểu lộ trong cuộc sống của mình như thế nào, và lựa chọn
một dấn thân cụ thể để góp phần cải tiến thực tại trong đó mình đang
sống, bắt đầu từ gia đình mình, từ xóm giềng của mình hay từ môi trường
làm việc.
Cả các
Quốc gia cũng được mời gọi có các cử chỉ cụ thể, có các hành động can
đảm đối với các người giòn mỏng nhất của xã hội, như các tù nhân, người
di cư, người thất nghiệp và người đau yếu.
Liên quan
tới các tù nhân, trong nhiều trường hợp xem ra cấp thiết áp dụng các
biện pháp cụ thể giúp cải tiến các điều kiện sống của họ trong các nhà
tù, bằng cách cho phép chú ý đặc biệt tới những người bị mất tự do trong
khi chờ đợi được xét xử, lưu tâm tới mục đích tái giáo dục của hình
phạt, và lượng định khả thể đưa vào trong luật pháp quốc gia các hình
phạt thay thế cho việc giam giữ trong nhà tù. Trong bối cảnh ấy tôi ước
ao canh tân lời kêu gọi các giới chức chính quyền quốc gia huỷ bỏ án tử
hình, tại nơi đâu nó còn hữu hiệu và duyệt xét lại khả thể của một cuộc
ân xá.
Liên quan
tới các người di cư, tôi muốn đưa ra một lời mời gọi suy tư trở lại các
luật lệ về di cư, để chúng được linh hoạt bởi ý chí tiếp đón, trong sự
tôn trọng hỗ tương các nhiệm vụ và trách nhiệm, và có thể tạo dễ dàng
cho việc hội nhập của các người di cư. Trong viễn tượng này phải có một
sự chú ý đặc biệt đối với các điều kiện di trú của người di cư, bằng
cách nhớ rằng sự lén lút có nguy cơ lôi kéo họ tới tội phạm.
Ngoài ra
tôi cũng ước mong trong Năm Thánh này đưa ra một lời kêu gọi cấp bách
giới hữu trách các quốc gia có các cử chỉ cụ thể đối với các anh chị em
khổ đau vì thiếu công ăn việc làm, đất đai và nhà ở. Tôi nghĩ tới việc
tạo ra các chỗ làm việc xứng đáng để chống lại tệ nạn xã hội của sự thất
nghiệp, đả thương nhiều gia đình và người trẻ và có các hậu quả rất
nghiêm trọng liên quan tới điều kiện sống của toàn xã hội. Sự thiếu công
ăn việc làm tấn kích một cách nặng nề ý thức về phẩm giá và niềm hy
vọng, và chỉ có thể được bù trừ phần nào bởi các liên đới cần thiết
dành cho nhũng người thất nghiệp và gia đình họ. Một sự chú ý đặc biệt
cần phải dành cho phụ nữ – rất tiếc còn bị kỳ thị trong lãnh vực công ăn
việc làm – và cho vài tầng lớp công nhân, có các điều kiện bấp bênh hay
nguy hiểm và có đồng lương không tương xứng với tầm quan trọng sứ mệnh
xã hội của họ.
Sau cùng
tôi muốn mời gọi có các hoạt động hữu hiệu giúp cải tiến các điều kiện
sống của các bệnh nhân, bằng cách bảo đảm cho tất cả được săn sóc y khoa
và có thuốc men cần thiết cho sự sống, bao gồm cả việc được săn sóc tại
gia.
Khi hướng
cái nhìn vượt ngoài các ranh giới của mình, giới hữu trách các quốc gia
cũng được mời gọi canh tân các tương quan với các dân tộc khác, bằng
cách cho phép tất cả mọi người thực sự tham gia và bao gồm vào cuộc sống
của cộng đồng quốc tế, hầu thể hiện tình huynh đệ cả bên trong gia đình
quốc gia nữa.
Trong
viễn tượng này, tôi ước mong đưa ra một lời kêu gọi gồm ba điều: đừng
lôi cuốn các dân tộc khác vào các cuộc xung đột hay các chiến tranh
không chỉ tàn phá các giầu có vật chất, văn hóa và xã hội của họ, mà
cũng – trong thời gian lâu dài – tàn phá sự toàn vẹn luân lý và tinh
thần của họ nữa; xóa bỏ hay điề hành có thể chịu đựng nổi nợ nần quốc tế
của các nước nghèo hơn; áp dụng các đường lối chính trị cộng tác, tôn
trọng các giá trị của các dân tộc địa phương thay vì gập mình trước sự
độc tài của vài ý thức hệ, và trong mọi trường hợp các đường lối chính
trị ấy không được gây tổn thương cho quyền nền tảng và bất khả nhượng
của các trẻ em sắp sinh vào cuộc sống.
Tôi xin
phó thác các suy tư này cùng với các lời chúc mừng năm mới tốt đẹp cho
năm mới cho lời bầu cử của Mẹ Maria Rất Thánh Mẹ mau mắn lo cho các nhu
cầu của nhân loại, để Mẹ xin được từ Chúa Giêsu Con Mẹ, Hoàng Tử Hoà
Bình, việc khấng nhận các lời khẩn nài của chúng ta và phước lành của sự
dấn thân thường ngày của chúng ta cho một thế giới huynh đệ và liên đới
hơn.
Từ
Vaticăng mùng 8 tháng 12 năm 2015 Lễ trọng Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức
Trinh Nữ Diễm Phúc Maria. Mở Năm Thánh Ngoại Thường Lòng Thương Xót.
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét